Bản án về ly hôn, tranh chấp con chung khi ly hôn số 05/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN BẮC - TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 05/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 14 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 20/2022/TLST-HNGĐ ngày 12/5/2022 về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Yến N – Sinh năm 1986 (Có mặt).

Nơi cư trú: Thôn T H, xã Phước T, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận.

Bị đơn: Anh Nguyễn Tiến K – Sinh năm : 1985 (Có mặt).

Nơi cư trú: Thôn Gò S, xã Bắc P, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 11/5/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Bùi Thị Yến N trình bày:

Chị Bùi Thị Yến N và anh Nguyễn Tiến K tự nguyện tìm hiểu và tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Bắc P, huyện Thuận Bắc tỉnh Ninh Thuận theo Giấy chứng nhận kết hôn số: 51/2019, ngày 22/10/2019. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống thời gian đầu thì hạnh phúc được khoảng 06 tháng, sau đó phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do khi chị N có thai, có bệnh nên xin được về nhà mẹ ruột ở Thôn T H, xã Phước T, huyện Ninh Phước ở lại nhưng anh K không đồng ý dẫn đến vợ chồng thường hay gây gỗ nhau, anh K không tin tưởng chị N trong việc quản lý tiền bạc tích lũy để dành cho gia đình nên hay xúc phạm chị N nhiều lần. Ngoài ra khi chị N sinh con nhỏ anh K không vào nhà mẹ ruột chị N để phụ giúp chăm con, cách đây khoảng 01 năm anh K nhắn tin cho chị N là không vào nữa và từ đó đến nay anh K không ghé thăm vợ con, nên vợ chồng sống ly thân hơn 01 năm nay mạnh ai ngưới nấy sống và tự lo. Hiện tại tình cảm vợ chồng không còn nên chị N yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Tiến K để sớm ổn định cuộc sống lo cho con.

- Về con chung: Chị N và anh K có một người con chung là Nguyễn Bùi Yến N, sinh 14/01/2021. Khi ly hôn chị N có nguyện vọng được nuôi dưỡng người con chung và yêu cầu anh Nguyễn Tiến K cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng (một triệu đồng).

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Tiến K trình bày:

Về quan hệ hôn nhân và con chung: Anh Nguyễn Tiến K thừa nhận về quan hệ hôn nhân và con chung giữa anh và chị N như chị N trình bày là đúng sự thật.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống thời gian đầu thì hạnh phúc được khoảng 01 năm sau, khi chị N mang thai thì về nhà mẹ ruột ở luôn cho đến nay. Đến đầu năm 2022 khi con được 01 tuổi thì không còn hạnh phúc. Nguyên nhân do chị N không tôn trọng anh K và gia đình anh trong việc nuôi dạy con như tổ chức thôi nôi cho con không báo cho bên nội biết, còn con bị bệnh cũng không báo cho anh K biết, nhiều lần anh K nói chị N đưa con về thăm ông bà nội nhưng chị N không dẫn con về thăm. Từ đó anh K bất mãn nên cũng rất ít ghé thăm vợ con, đến hơn 3 tháng anh mới ghé thăm một lần. Nhiều lần anh K điện thoại nhưng chị N không nghe máy, còn nhắn tin nhiều lần thì chỉ có một hai lần trả lời. Vì vậy vợ chồng sống ly thân gần 8 tháng nay, mạnh ai người nấy sống và tự lo. Qua những sự việc đã xảy ra thì anh K cũng nhận thấy việc vợ chồng anh có trở lại chung sống với nhau được hay không thì cũng không biết trước được, Tuy vậy, anh vẫn còn tình cảm thương yêu chị N, do đó anh không đồng ý với yêu cầu ly hôn của chị N, anh yêu cầu được đoàn tụ nhưng chị N vẫn kiên quyết ly hôn thì Toà án cứ giải quyết theo yêu cầu của chị N.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Bùi Yến N, sinh 14/01/2021. Anh K đồng ý để chị N trực tiếp nuôi con chung và đồng ý cấp dưỡng 1.000.000đồng/tháng.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh K đồng ý theo như yêu cầu của chị N là không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Bắc thể hiện:

Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử (HĐXX) nghị án. Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử luôn tuân theo pháp luật tố tụng và người tham gia tố tụng là nguyên đơn, bị đơn luôn chấp hành pháp luật.

Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Bùi Thị Yến N về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn với anh Nguyễn Tiến K.

Về con chung: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Giao cho chị N chăm sóc, nuôi dưỡng người con chung là Nguyễn Bùi Yến N, sinh 14/01/2021. Đề nghị HĐXX ghi nhận sự thỏa thuận của đương sự về việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con. Anh K đồng ý để chị N nuôi con chung và đồng ý cấp dưỡng 1.000.000đồng/tháng.

Về tài sản chung, nợ chung: Do Chị N, anh K không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị HĐXX không xem xét.

Về án phí: Đề nghị HĐXX buộc chị Bùi Thị Yến N chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Bùi Thị Yến N có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn và giải quyết con chung khi ly hôn với anh Nguyễn Tiến K. Chị N yêu cầu nhận nuôi con chung và yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con chung. Chị N và anh K không yêu cầu giải quyết về tài sản chung, nợ chung. Bị đơn - anh K có nơi cư trú trên địa bàn huyện Thuận Bắc. Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS), HĐXX xác định đây là vụ án hôn nhân và gia đình về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận.

[2] Về nội dung vụ án: Chị Bùi Thị Yến N và anh Nguyễn Tiến K tự nguyện tìm hiểu, tiến tới hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Bắc P, huyện Thuận Bắc tỉnh Ninh Thuận theo Giấy chứng nhận kết hôn số 51/2019, ngày 22/10/2019, nên đây là hôn nhân hợp pháp. Theo Biên bản lấy lời khai của các đương sự; Biên bản hòa giải ngày 12/8/2022, Biên bản hòa giải ngày 31/8/2022 có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Trong cuộc sống hôn nhân giữa chị N và anh K có xảy ra mâu thuẫn vì có bất đồng quan điểm sống do anh K không tin tưởng chị N trong quản lý tài sản, hay có lời lẻ xúc phạm chị N, không quan chăm sóc khi chị N mang thai và sinh con nhỏ. Chị N cho rằng tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh K. Anh K thừa nhận những mâu thuẫn của vợ chồng như chị N trình bày, anh cho rằng vợ chồng không thể trở về chung sống đoàn tụ. Mặt khác anh K thừa nhận trong quá trình sống ly thân anh K và chị N không còn quan tâm, chăm sóc nhau, mặc dù nhiều lần anh tác động chị N quay về chung sống nhưng không thành. Anh K không đồng ý ly hôn, nhưng chị N vẫn kiến quyết ly hôn.

Như vậy, mâu thuẫn vợ chồng của chị N anh K là nghiêm trọng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, hai người cũng có lỗi nhưng phần lớn thuộc về anh K. Nên căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, HĐXX chấp nhận yêu cầu của chị N được ly hôn anh K.

[3] Về con chung: Khi ly hôn chị N có nguyện vọng được chăm sóc, nuôi dưỡng người con chung là Nguyễn Bùi Yến N, sinh ngày 14/01/2021. Tại biên bản hòa giải ngày 12 và 31/8/2022 anh K không đồng ý ly hôn nhưng nếu ly hôn anh K đồng ý giao con chung cho chị N nuôi dưỡng, anh K đồng ý cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng. Vì vậy, căn cứ Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình, HĐXX chấp nhận yêu cầu của chị N về việc giao người con chung cho chị N nuôi dưỡng và Khoa đồng ý cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị N, anh K đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc chị Bùi Thị Yến N nộp án phí theo quy định. Anh K phải chịu 50% án phí về cấp dưỡng nuôi con chung do hai bên thỏa thuận trong quá trình hòa giải và yêu cầu Tòa án ghi nhận.

[6] Về quan điểm của Viện kiểm sát: Xét quan điểm của Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử về quan hệ hôn nhân, về con chung và cấp dưỡng nuôi con nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chị Bùi Thị Yến N được ly hôn anh Nguyễn Tiến K.

2. Về con chung: Giao cho chị Bùi Thị Yến N có quyền và nghĩa vụ tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên: Nguyễn Bùi Yến N, sinh ngày 14/01/2021. Anh Nguyễn Tiến K có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000đ (một triệu đồng) cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Thời gian cấp dưỡng từ tháng 10/2022.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Bùi Thị Yến N và Nguyễn Tiến K đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

4. Về án phí: Chị Bùi Thị Yến N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai số 0000143 ngày 12/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuận Bắc (chị N đã nộp đủ tiền án phí sơ thẩm).

Anh Nguyễn Tiến K phải chịu 150.000đ (một trăm năm mươi nghìn đồng) án phí về phần cấp dưỡng nuôi con chung.

Án xử sơ thẩm công khai, nguyên đơn, bị đơn đều có mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 14/9/2022 ). 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp con chung khi ly hôn số 05/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:05/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Bắc - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:14/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về