TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỐNG NHẤT, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 68/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN
Ngày 20 tháng 9 năm 2022, tại Hội trường A - Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 429/2022/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 6 năm 2022, về việc “Ly hôn, tranh chấp chia tài sản khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 77/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 8 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số 106/2022/QĐST – HNGĐ ngày 05 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kim L, sinh năm 1968.
Địa chỉ: Số 48/4C, ấp Đ, xã G, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. (Vắng mặt)
- Bị đơn: Ông Vũ Văn T, sinh năm 1967.
Địa chỉ: Số 48/4C, ấp Đ, xã G, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 06 tháng 5 năm 2022 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn – bà Nguyễn Thị Kim L trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Kim L và ông Vũ Văn T tự nguyện yêu thương nhau và được UBND xã G, huyện Thống Nhất cấp giấy chứng nhận vào ngày 14/12/1990. Đây là hôn nhân lần đầu của bà L.
Sau khi kết hôn thì vợ chồng sống chung tại nhà cha mẹ đẻ của bà L tại xã G, huyện Thống Nhất được khoảng 10 năm rồi vợ chồng chuyển về xã Gia Kiệm (nhà riêng của vợ chồng) để sinh sống. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng kể từ năm 1995 nguyên nhân do ông T không chung thủy trong quan hệ vợ chồng. Cụ thể, bà L thường xuyên chứng kiến việc ông T chở theo người phụ nữ khác rất tình cảm và nhiều lần nghe được những cuộc nói chuyện trên mức bạn bè giữa ông T với người phụ nữ khác. Bà đã góp ý nhưng ông T không nghe. Mặt khác, ông T là một người đàn ông vũ phu, mỗi lần vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, ông T thường đánh đập bà L nhưng không để lại thương tích gì. Do nghĩ đến con cái nên bà L ráng chịu đựng tuy nhiên ông T càng ngày càng tỏ ra lộ liễu. Gần lần đây nhất vào cuối tháng 5/2022, đám cưới con gái của bà và ông Thái là cháu Vũ Hoàng Minh N, ông T có dẫn theo một người phụ nữ về tham dự đám cưới nên giữa hai vợ chồng có xảy ra xích mích. Con cái trong nhà không muốn có mặt người phụ nữ ấy nên giữa ông T và bà L và các con có xảy ra xô xát. Sau khi lời qua tiếng lại thì ông Thái có cầm dao kề vào cổ con gái bà là cháu Vũ Hoàng Minh N phải khâu hai mũi. Sự việc trên gia đình có báo cho công an xã Gia Kiệm giải quyết, công an xã Gia Kiệm có vào nhà đưa giấy mời ông T ra giải quyết tuy nhiên do nghĩ tình thân nên cháu N có rút đơn.
Đến nay mâu thuẫn càng ngày càng căng thẳng. Do lo sợ khi chung sống với một người vũ phu như vậy nên bà L mong muốn Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Vũ Văn T.
- Về con chung: Vợ chồng chung sống có 03 (ba) con chung là Vũ Nguyên S, sinh năm 1992; Vũ Hoàng Minh N, sinh năm 1993 và Vũ Thanh Phương T, sinh năm 1995. Hiện các con chung đã thành niên và có khả năng lao động.
- Về tài sản chung: Trong thời kỳ hôn nhân bà L và ông T có tạo lập được khối tài sản chung sau:
+ 01 căn nhà cấp 4 xây năm 2014 tọa lạc trên diện tích 91m2 thuộc thửa 397 tờ bản đồ địa chính số 17 tại xã Gia Kiệm, huyện Thống Nhất. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà Nguyễn Thị Kim L và ông Vũ Văn T. Trị giá nhà đất khoảng 900.000.000đ (Chín trăm triệu đồng).
Ngoài ra vợ chồng không còn tài sản chung nào khác.
- Về nợ chung: Bà L khai không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Khi ly hôn bà L yêu cầu được nhận nhà đất nêu trên và đồng ý thanh toán cho ông Thái 1/3 giá trị là 300.000.000đ (Ba trăm triệu đồng).
Vào ngày 09/8/2022 bà L có đơn xin rút về phần yêu cầu chia tài sản chung.
* Bị đơn ông Vũ Văn T vắng mặt trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án, không cung cấp văn bản trình bày ý kiến và chứng cứ, tài liệu có liên quan về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai phát biểu quan điểm:
- Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án được thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa, cả nguyên đơn, bị đơn đều không đến tham dự phiên tòa, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt và bị đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai vẫn không có mặt tại phiên tòa nên đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là đúng quy định pháp luật.
- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
+ Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Kim L được ly hôn với ông Vũ Văn T.
+ Về con chung: Các con chung đã thành niên và có khả năng lao động nên không xem xét giải quyết.
+ Về tài sản chung: Đình chỉ yêu cầu về chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn.
+ Về nợ chung: Không xem xét giải quyết.
+ Về án phí: Buộc bà Nguyễn Thị Kim L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
Kiểm sát viên không kiến nghị khắc phục hay bổ sung gì khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn yêu cầu ly hôn và chia tài sản khi ly hôn, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là “Ly hôn, chia tài sản khi ly hôn”. Bị đơn ông Vũ Văn T cư trú tại ấp 48/4C ấp Đ, xã G, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2] Về việc xét xử vắng mặt các đương sự: Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn, bị đơn đều vắng mặt, nguyên đơn đã có đơn xin xét xử vắng mặt và bị đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ Điều 227, Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Kim L và ông Vũ Văn T tiến tới hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân UBND xã Gia Tân 3, huyện Thống Nhất cấp giấy chứng nhận vào ngày 14/12/1990 nên được xem là hôn nhân hợp pháp.
Xét yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn, nhận thấy: bà L xác định tình cảm vợ chồng không còn, khả năng đoàn tụ không có, vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ và chia sẻ với nhau công việc trong gia đình. Quá trình ly thân giữa ông bà cũng không còn sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau là có căn cứ phù hợp các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Theo kết quả xác minh tại Công an xã Gia Kiệm, huyện Thống Nhất cho biết: Bà L và cháu N có liên hệ Công an xã Gia Kiệm để tố cáo và nhờ can thiệp việc ông Thái gây thương tích cho cháu N (con chung của bà L và ông T). Công an xã Gia Kiệm có làm việc với ông T, sau đó cháu N không yêu cầu công an xã Gia Kiệm xử lý hành vi của ông T nên công an xã không lập hồ sơ xử lý vụ việc trên.
Tại bản tự khai đề ngày 10/8/2022 và bản tự khai đề ngày 09/8/2022 chị Vũ Hoàng Minh N và anh Vũ Minh S là con chung của bà L và ông T cho biết giữa bà Lvà ông T thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, mỗi lần ông T và bà L xảy ra mâu thuẫn thì ông T có hành vi đánh đập, đe dọa xâm phạm đến tính mạng và sức khỏe bà L. Chị N đề nghị Tòa án giải quyết cho bà L được ly hôn với ông T.
Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã nhiều lần tổ chức Hòa giải để giúp ông bà có cơ hội hàn gắn tình cảm nhưng ông T đều vắng mặt, cả bà L và ông T đều không có ý thức hàn gắn hay có biện pháp gì để khắc phục mâu thuẫn vợ chồng đã xảy ra. Điều này cho thấy tình trạng mâu thuẫn vợ chồng của bà L và ông T đã trầm trọng, kéo dài nhưng không có hướng khắc phục, tình cảm vợ chồng không có điều kiện để hàn gắn nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà L là phù hợp với quy định tại Điều 40 của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986.
[2.2] Về con chung: Vợ chồng chung sống có 03 (ba) con chung là Vũ Nguyên S, sinh năm 1992; Vũ Hoàng Minh N, sinh năm 1993 và Vũ Thanh Phương T, sinh năm 1995. Hiện các con chung đã thành niên và có khả năng lao động nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[2.3] Về tài sản chung: Vào ngày 09/8/2022 bà L có đơn xin rút về phần yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn nên cần Đình chỉ yêu cầu về tranh chấp chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn giữa bà Nguyễn Thị Kim L và ông Vũ Văn T.
quyết.
[2.4] Về nợ chung: Bà L khai không có nên Tòa án không xem xét giải
[3] Về án phí: Bà L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
[4] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất về đường lối giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[5] Về quyền kháng cáo: Các bên đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 217, Điều 227; Điều 228; Điều 238; Điều 266; Điều 269; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Áp dụng Điều 5, Điều 6 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;
- Áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 57 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim Loan.
1. Về hôn nhân: Xử cho bà Nguyễn Thị Kim L và ông Vũ Văn T được ly hôn.
2. Về con chung: Các con chung hiện đã thành niên và có khả năng lao động.
3. Về tài sản chung: Đình chỉ yêu cầu “Tranh chấp chia tài sản khi ly hôn” giữa bà Nguyễn Thị Kim L và ông Vũ Văn T.
4. Về nợ chung: Tòa án không xem xét giải quyết.
5. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Kim L phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ từ tiền tạm ứng án phí sang nộp án phí theo biên lai thu số 0008791 ngày 08 tháng 6 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. Bà L đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn lại cho bà Nguyễn Thị Kim L số tiền tạm ứng án phí 14.000.000đ (mười bốn triệu đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0008792 ngày 08 tháng 6 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai 6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp chia tài sản khi ly hôn số 68/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 68/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thống Nhất - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về