Bản án về ly hôn số 99/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 99/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/06/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 21 tháng 6 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 44/2022/TLST-HNGĐ ngày 21/3/2022 về Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 110/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 5 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 80/2022/QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 6 năm 2022 giữa các đương S:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1979.

Nơi ĐKHKTT: KDC M, phường C, thành phố C, tỉnh Hải Dương (Vắng mặt, đề nghị xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Trần Văn S, sinh năm 1972.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: KDC M, phường C, thành phố C, tỉnh Hải Dương.

Nơi cư trú hiện nay: Đài Loan (Vắng mặt).

3. Người làm chứng: Bà Vũ Thị C, sinh năm 1938. Địa chỉ: KDC M, phường C, thành phố C, tỉnh Hải Dương (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị D và anh S tự do tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND phường C, thị xã C (nay là thành phố C), tỉnh Hải Dương vào ngày 14/10/1997. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc và không có mâu thuẫn gì. Tuy nhiên sau đó do kinh tế khó khăn nên năm 2009 anh S đi lao động tại Đài Loan. Thời gian đầu vợ chồng xa nhau tình cảm vẫn tốt tuy nhiên chỉ được thời gian ngắn anh S thay đổi, tránh mặt chị D sau đó không liên lạc với vợ con, để chị D một mình nuôi dạy con và cáng đáng việc gia đình. Từ khi đi nước ngoài lao động anh S có về nước hai lần tuy nhiên cũng không hỗ trợ chị D nuôi con. Từ năm 2015 đến nay anh S chưa về nước lần nào và cắt đứt hoàn toàn liên lạc với chị D. Nay chị D nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa, chung sống không có hạnh phúc, vợ chồng ly thân đã nhiều năm, không thể tiếp tục quan hệ vợ chồng nên chị D đề nghị tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh S.

Về quan hệ con chung: Chị D và anh S có một con chung là Trần Thị Thủy T, sinh ngày 24/12/1997. Hiện con chung đã trưởng thành, trên 18 tuổi nên chị D không đề nghị tòa án giải quyết về con chung.

Về quan hệ tài sản chung: Chị D và anh S có tài sản chung nhưng chị D xác định tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại các biên bản lấy lời khai, mẹ đẻ của anh Trần Văn S là bà Vũ Thị C trình bày: Anh S là con trai của bà C, chị D là vợ anh S và là con dâu của bà. Anh S và chị D tự do tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại UBND phường Chí Minh. Mâu thuẫn của anh S và chị D cụ thể thì bà cũng không nắm được. Anh S hiện đang đi lao động tại Đài Loan. Do anh S không nói địa chỉ cụ thể nên bà không cung cấp địa chỉ cụ thể của anh S tại Đài Loan cho Tòa án được. Bà và gia đình vẫn thường xuyên liên lạc với anh S nên bà xác định nhận các văn bản tố tụng của Tòa án để thông báo cho anh S biết việc chị D đang yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, đồng thời thông báo nội D các văn bản tố tụng của tòa án cho anh S biết. Qua trao đổi thì bà được anh S cho biết anh S có quan điểm rằng vợ chồng ly thân đã lâu, hiện anh S không có mặt ở Việt Nam nên đề nghị tòa án giải quyết vụ án vắng mặt theo pháp luật và anh S đồng ý ly hôn với chị D. Anh S xác định vợ chồng có một con chung là Trần Thị Thủy T, sinh ngày 24/12/1997. Hiện con chung đã trưởng thành, trên 18 tuổi nên anh S không đề nghị tòa án giải quyết về con chung. Anh S xác định vợ chồng có tài sản chung nhưng tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do điều kiện công việc thường xuyên thay đổi địa chỉ nên anh S không thể cung cấp địa chỉ cụ thể, đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt anh S và tống đạt các văn bản thông qua mẹ đẻ anh là bà Vũ Thị C. Bà C đồng ý nhận thay để thông báo cho anh S. Ngoài ra bà không trình bày hay có yêu cầu gì khác.

Tại phiên tòa các đương sự đều vắng mặt.

Đại diện VKSND tỉnh Hải Dương phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án, trong thời hạn chuẩn bị xét xử đến khi xét xử tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa cũng như những người tham gia tố tụng cơ bản tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng.

- Về hướng giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX xử chấp nhận cho chị Nguyễn Thị D ly hôn anh Trần Văn S. Chị D phải nộp 300.000đ án phí ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Về thẩm quyền thụ lý và giải quyết: Chị Nguyễn Thị D yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Trần Văn S là người Việt Nam hiện đang lao động tại Đài Loan, có hộ khẩu thường trú tại tỉnh Hải Dương. Căn cứ quy định tại điểm d khoản 1 Điều 469, khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, điểm c khoản 1 Điều 40 BLTTDS, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

Theo Công văn của Cục quản lý xuất nhập cảnh, anh S xuất cảnh vào ngày 14/10/2014. Từ đó đến nay anh S chưa nhập cảnh lần nào.

Về việc tống đạt các văn bản tố tụng cho bị đơn: Chị D chỉ cung cấp được địa chỉ nơi cư trú cuối cùng của anh S ở Việt Nam nhưng không cung cấp được địa chỉ của anh S tại nước ngoài. Tòa án đã yêu cầu mẹ đẻ của anh S là bà C cung cấp địa chỉ của anh S đến lần thứ hai nhưng bà C cũng không biết địa chỉ của anh S tại Đài Loan. Tuy nhiên bà C vẫn liên lạc được với anh S nên đã nhận các văn bản tố tụng để thông báo cho anh S. Đồng thời, Tòa án cũng tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật.

Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa chị D vắng mặt, đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; anh S vắng mặt mặc dù đã được Tòa án thông báo qua thân nhân và niêm yết các văn bản tố tụng theo đúng quy định. Do đó, HĐXX căn cứ vào khoản 1, khoản 2 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt chị D, anh S là phù hợp.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị D và anh S tự do tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND phường C, thành phố C, tỉnh Hải Dương vào ngày 14/10/1997 nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Do kinh tế khó khăn nên năm 2009 anh S đi lao động tại Đài Loan. Thời gian đầu vợ chồng xa nhau tình cảm vẫn tốt tuy nhiên sau đó anh S không liên lạc và không quan tâm đến chị D. Từ năm 2015 đến nay anh S chưa về nước và hiện cắt đứt hoàn toàn quan hệ với chị D.

Xét thấy hôn nhân của chị D và anh S đã lâm vào tình trạng trầm trọng, vợ chồng ly thân nhiều năm, không ai quan tâm đến ai, mục đích hôn nhân không đạt được. Thông qua bà C thì anh S cũng xác định vợ chồng ly thân đã lâu, đồng ý ly hôn với chị D nên cần chấp nhận cho chị D ly hôn với anh S là phù hợp quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị D và anh S xác định vợ chồng có 01 con chung là Trần Thị Thủy T, sinh ngày 24/12/1997, hiện đã trưởng thành, chị D và anh S không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xét.

[4] Về quan hệ tài sản chung: Chị D và anh S xác định vợ chồng có tài sản chung, nhưng tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xét.

[5] Về án phí: Chị D là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 273, khoản 2 Điều 479 BLTTDS.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm d khoản 1 Điều 469, khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, điểm c khoản 1 Điều 40, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 238, Điều 474, Điều 273, khoản 2 Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị D được ly hôn anh Trần Văn S.

2. Về án phí: Chị Nguyễn Thị D phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm ly hôn, đối trừ với 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí chị D đã nộp tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương, theo biên lai thu số AA/2020/0004986 ngày 18/3/2022. Chị D đã nộp đủ án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị D quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, anh Trần Văn S được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ, hoặc từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 99/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:99/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về