Bản án về ly hôn số 97/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 97/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/12/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 14 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 286/2021/TLST- HNGĐ ngày 05 tháng 10 năm 2021 về tranh chấp “Ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 107/2021/QĐXX- ST ngày 06 tháng 11 năm 2021, giữa:

Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị A, sinh năm 2000 (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Phú Y 3, xã Tam D, huyện Lục N, tỉnh Bắc Giang.

Bị đơn: Anh Nguyễn Việt B, sinh năm 1995 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn M, xã Trường S, huyện Lục N, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ghi ngày 26/8/2021 và trong các lời khai chị HoàngThị A là nguyên đơn trình bày: Chị kết hôn với anh Nguyễn Việt B năm 2019 trước khi kết hôn chúng tôi có được tìm hiểu tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Trường S cưới xong anh chị về chung sống với nhau ngay. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được khoảng thời gian ngắn đến tháng 8/2019 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn do anh Việt B chơi bời không chịu làm ăn và không quan tâm gì đến vợ con. Chị đã về mẹ đẻ ở từ năm 2020 cho đến nay và anh chị sống ly thân từ đó không còn quan hệ về tình cảm và kinh tế.

Nay chị xác định tình cảm không còn đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn.

Về con chung: Anh chị có 1 con chung Nguyễn Hoàng Bảo A, sinh ngày 28/10/2018 chị để anh Việt B nuôi con vì cháu đang ở nhà với anh Việt B và bà nội cháu quen nên chị không muốn cuộc sống của cháu bị xáo trộn. Chị tự nguyện cấp dưỡng 3.000.000đ/tháng.

Về tài sản chung, công nợ chung, ruộng canh tác chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa chị hôm nay chị Hoàng Thị A có đơn xin xét xử vắng mặt.

Bị đơn là anh Nguyễn Việt B: Trong quá trình giải quyết vụ án anh Việt B biết được chị A có đơn đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh. Tòa án đã triệu tập và tống đạt hợp lệ các loại văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật mẹ đẻ anh là bà Trần Thị T đã nhận các văn bản của Tòa án và cam kết giao lại ngay và tận tay anh Việt B. Nhưng hết thời hạn quy định anh không có ý kiến quan điểm và chứng cứ cung cấp giao nộp cho Tòa án để đảm bảo quyền và lợi ích của mình.

Tại phiên tòa hôm nay anh Việt B vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, phát biểu ý kiến:

Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi mở phiên tòa Thẩm phán và Thư ký tòa án tuân theo đúng trình tự tố tụng. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử sơ thẩm thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về phía các đương sự, chị A chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Chị A có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Việt B không chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật. Đề nghị HĐXX xét xử vụ án và căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2015, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 272 và Điều 273, điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về xử lý án phí, lệ phí, tuyên xử:

Về quan hệ vợ chồng: Cho chị Hoàng Thị A được ly hôn anh Nguyễn Việt B.

Về con chung: Giao cho anh Nguyễn Việt B nuôi con Nguyễn Hoàng B A, sinh ngày 28/10/2018 chị A tự nguyện cấp dưỡng nuôi con 3.000.000 đồng/tháng kể từ tháng 01/2022 đến khi con chung đủ 18 tuổi. Chị A được quyền thăm nom con chung không ai được cản trở chị A thực hiện quyền này:

Về tài sản chung, công nợ chung, ruộng canh tác: Chị A không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra Viện kiểm sát còn đề xuất về án phí và quyền kháng cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra chứng cứ tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, HĐXX nhận thấy:

[1] Về tố tụng: Đơn khởi kiện của chị Hoàng Thị A và các tài liệu nộp kèm theo đơn khởi kiện là hợp lệ, đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về hình thức nội dung đơn khởi kiện. Chị Hoàng Thị A và anh Nguyễn Việt B có hộ khẩu thường trú tại xã Tam Dị, xã Trường Sơn, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Do đó Tòa án nhân dân huyện Lục Nam thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền. Về phía anh Nguyễn Việt B là bị đơn tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng hết thời hạn Luật định anh Việt B không đưa ra quan điểm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình anh cũng không đến Tòa án làm việc và không đến tham gia phiên tòa xét xử vụ án, chị A có đơn xin xét xử vắng mặt vì vậy. Căn cứ vào Điều 227, Điều 228 BLTTDS, HĐXX đưa vụ án ra xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về nội dung: Chị Hoàng Thị A với anh Nguyễn Việt B kết hôn năm 2019 và có đi đăng ký kết hôn tại UBND xã Trường Sơn, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang, trước khi kết hôn hai bên được tự do tìm hiểu đây là hôn nhân hợp pháp. sau đó chị và anh Việt B về chung sống với nhau. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được khoảng thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn.

Nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn do tính cách không hợp nhau, mâu thuẫn trong quan điểm sống và trong làm ăn kinh tế. Hai bên gia đình đã tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng không cải thiện mà ngày càng trầm trọng hơn. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Anh chị đã sống ly thân từ năm 2020 cho đến nay không còn quan hệ gì về tình cảm và kinh tế chị A vẫn kiên quyết đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn. Vì vậy xác mâu thuẫn vợ chồng giữa chị A và anh Việt B đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị A theo quy định tại Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Giao cho anh Việt B nuôi con Nguyễn Hoàng Bảo A, sinh ngày 28/10/2018 vì con của anh chị từ nhở sống cùng anh Việt B và bà nội. Chị A tự nguyện cấp dưỡng nuôi con 3.000.000 đồng/tháng kể từ tháng 01/2022 đến khi con chung đủ 18 tuổi. Chị A được quyền thăm nom con chung không ai được cản trở chị A thực hiện quyền này:

[4] Về tài sản chung, công nợ chung, ruộng canh tác: Chị A không đề nghị Tòa án giải quyết, nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị A phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147, Điều 227; Điều 228, Điều 271, Điều 272 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về xử lý án phí, lệ phí, tuyên xử:

1.Về quan hệ vợ chồng: Cho chị Hoàng Thị A được ly hôn anh Nguyễn Việt B.

2. Về con chung: Giao cho anh Việt B nuôi con Nguyễn Hoàng Bảo A, sinh ngày 28/10/2018. Chị A tự nguyện cấp dưỡng nuôi con 3.000.000 đồng/tháng kể từ tháng 01/2022 đến khi con chung đủ 18 tuổi. Chị A được quyền thăm nom con chung không ai được cản trở chị A thực hiện quyền này:

3.Về án phí: Chị Hoàng Thị A phải chịu 300.000đ tiền án phí ly hôn nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp tại chi cục thi hành án dân sự huyện Lục Nam ngày 05/10/2021 theo biên lai thu số 0013271 xác nhận chị A đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Báo cho các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

88
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 97/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:97/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Nam - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về