TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MINH HOÁ, TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 90/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/09/2022 VỀ LY HÔN
Ngày 15 tháng 9 năm 2022, tại phòng xử án, Toà án nhân dân huyện Minh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 64/2022/HNGĐ – TLST ngày 01 tháng 7 năm 2022 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 64/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 09/8/2022 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: chị Phạm Thị Tr; sinh năm 1998
Địa chỉ: thôn P, xã T, huyện M, tỉnh Quảng Bình; có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt
2. Bị đơn: anh Thái Quang V; sinh năm 1998
Địa chỉ: thôn P, xã T, huyện M, tỉnh Quảng Bình; vắng mặt lần thứ hai.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 23/6/2022 cũng như tại quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Phạm Thị T trình bày:
- Về hôn nhân: chị T và anh V kết hôn năm 2018 tại UBND xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không có ai ép buộc. Thời gian chung sống thường xuyên phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do vợ chồng không hợp tính tình, không cùng quan điểm sống, anh V thường xuyên đánh đập vợ, hai vợ chồng sống ly thân từ năm 2020 cho đến nay. Nhận thấy cuộc sống vợ chồng không thể hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị Tr làm đơn yêu cầu được ly hôn với anh V.
- Con chung của vợ chồng: không có
- Tài sản chung và nợ chung: không có.
Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không hòa giải được do anh V không đến Tòa án mặc dù đã được triệu tập hợp lệ.
Ngày 03/8/2022, Tòa án xác minh việc vắng mặt của anh Thái Quang V tại Công an xã Thương Hóa được biết anh V có hộ khẩu thường trú tại thôn Phú Nhiêu, xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, hiện không có mặt tại địa phương. Tòa án cũng tiến hành xác minh tại nhà của bà Cao Thị L (mẹ đẻ của anh V) được biết anh V đã biết Tòa án thụ lý vụ án ly hôn giữa chị T và anh V nhưng do đang làm ăn ở xa nên anh V không về giải quyết theo giấy triệu tập của Tòa án được, bà L cũng cam kết là nếu có giấy triệu tập hoặc các giấy tờ khác của Tòa án gửi cho anh V thì bà sẽ liên lạc để thông báo cho anh V biết.
Tòa án cũng đã tiến hành niêm yết quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập, thông báo mở lại phiên tòa tại UBND xã Thượng Hóa.
Bị đơn anh Thái Quang V không có ý kiến bằng văn bản theo thông báo thụ lý của Tòa án, cũng không đến Tòa án theo giấy triệu tập, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm và thông báo mở lại phiên tòa của Tòa án. Tòa án đã tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng hợp lệ theo quy định tại Điều 173 và Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự. Việc anh V không đến Tòa án để giải quyết vụ án thể hiện thái độ không hợp tác với Tòa án nên căn cứ Bộ luật Tố tụng dân sự giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
Ngày 24/8/2022, Toà án nhân dân huyện Minh Hoá đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm ly hôn đối với chị Tr và anh V. Mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng anh V vẫn vắng mặt nên Toà án đã hoãn phiên toà với lý do vắng mặt bị đơn.
Tại phiên tòa:
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
- Về tố tụng: từ khi thụ lý vụ án đến khi Hội đồng xét xử vào nghị án thì Thẩm phán xác định về thẩm quyền, quan hệ pháp luật, tư cách đương sự, thời hạn chuẩn bị xét xử đúng quy định của pháp luật và thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát cũng đảm bảo. Tại phiên toà Hội đồng xét xử, thư ký cũng chấp hành đúng theo quy định của pháp luật. Đối với nguyên đơn đã chấp hành đúng theo quy định tại các Điều 68, 70, 71 và Điều 234 của Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn không chấp hành đúng quy định của pháp luật.
- Về nội dung: về hôn nhân: cho ly hôn giữa chị Phạm Thị Tr và anh Thái Quang V; về con chung: không có nên không xem xét; về tài sản chung và nợ chung: không có nên không xem xét; chị Tr phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng: chị Tr yêu cầu giải quyết ly hôn, tranh chấp về nuôi con với anh V, tranh chấp trong vụ án là quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình, bị đơn cư trú tại thôn Phú Nhiêu, xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa.
Bị đơn được triệu tập hợp lệ hai lần nhưng vẫn vắng mặt, nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.
Anh Thái Quang V được Tòa án triệu tập hợp lệ đến để ghi nhận ý kiến, tiến hành thủ tục giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như việc tham gia phiên tòa xét xử giải quyết vụ án với nguyên đơn nhưng vẫn vắng mặt. Vì vậy, anh V đã tự từ bỏ quyền được chứng minh của mình, phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ yêu cầu khởi kiện, lời trình bày cũng như chứng cứ do nguyên đơn cung cấp để làm cơ sở xem xét giải quyết vụ án.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: chị Tr và anh V kết hôn với nhau vào năm 2018 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không có ai ép buộc và được UBND xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình cấp giấy chứng nhận kết hôn vì vậy đây là cuộc hôn nhân hợp pháp.
[3]. Xét yêu cầu ly hôn của chị Tr: vợ chồng chị Tr và anh V không còn yêu thương, quý trọng, quan tâm, chăm sóc và giúp đỡ lẫn nhau nữa thể hiện qua bản tự khai, quá trình giải quyết vụ án. Hai vợ chồng có nhiều mâu thuẫn do bất đồng trong cuộc sống, hai vợ chồng cũng đã sống ly thân từ năm 2020 cho đến nay. Tòa án xét thấy tình trạng hôn nhân của chị Tr và anh V đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu ly hôn của chị Tr là có căn cứ phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
[4]. Về con chung: không có nên Hội đồng xét xử không xét.
[5]. Về tài sản chung và các khoản vay nợ chung: không có nên Hội đồng xét xử không xét.
Anh Thái Quang V vắng mặt không thể hiện ý kiến, yêu cầu của anh về tài sản chung, nợ chung. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét giải quyết vấn đề tài sản chung, nợ chung theo chứng cứ và yêu cầu của chị Tr. Trường hợp các đương sự có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.
[6]. Về án phí: theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Tr phải chịu án phí sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39; Điều 147, 227, 228, 235, 238, 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 và Điều 57 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: cho chị Phạm Thị Tr ly hôn anh Thái Quang V.
2. Về quan hệ con chung: không có nên Tòa không xét.
3. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: không có nên Tòa không xét.
4. Về án phí: chị Phạm Thị Tr phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm ly hôn nhưng được khấu trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số:
0000621 ngày 01/7/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Minh Hoá, tỉnh Quảng Bình.
5. Quyền kháng cáo: đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (15/9/2022). Đương sự vắng mặt tại phiên toà hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về ly hôn số 90/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 90/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Minh Hóa - Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về