Bản án về ly hôn số 887/2020/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 887/2020/HNGĐ-ST NGÀY 19/10/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 19 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 595/2020/TLST- HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định hoãn phiên tòa số 238/2020/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 9 năm 2020 và Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 274/2020/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Vòng Chánh K, sinh năm 1989 (có đơn xin vắng) Địa chỉ: X Phạm Viết C, Phường 19, quận Bình Th, thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Ông Trần Hoàng L, sinh năm 1990 (vắng mặt) Địa chỉ: Y Nguyễn Duy T, tổ 8, khu phố Phước Lai, phường L Trường, Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Vòng Chánh K trình bày:

Bà Vòng Chánh K và ông Trần Hoàng L tự nguyện sống chung và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Phú Hữu, Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2013 và được Ủy ban nhân dân phường Phú Hữu, Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy chứng nhận kết hôn số 54, quyển số I/2013 ngày 19/12/2013.

Sau khi kết hôn vợ chồng hạnh phúc được 01 năm thì phát sinh những mâu thuẫn trong cách sinh hoạt gia đình, nhiều lần gây nợ nần không rõ lý do. Mặc dù sống chung nhà nhưng vợ chồng sống không có sự quan tâm, chia sẻ, tình cảm phai nhạt lần theo thời gian nên vợ chồng ly thân từ tháng 04/2019 đến nay. Trong thời gian sống ly thân bà sống tại X Phạm Viết C, Phường 19x, quận Bình T, thành phố Hồ Chí Minh, còn ông L vẫn sống tại Y Nguyễn Duy Trinh, tổ 8, khu phố Phước Lai, phường L Trường, Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. Xác định cả hai vợ chồng không hàn gắn được tình cảm, hiện nay mỗi người có cuộc sống riêng, mạnh ai nấy sống. Nay xét tình cảm vợ chồng không còn, không thể sống chung với nhau được nữa vì vậy bà K yêu cầu ly hôn với ông L.

Về con chung: Bà K tự xác định không có.

Về tài sản chung: Bà K tự xác định không có. Về nợ chung: Bà K tự xác định không có.

- Bị đơn là ông Trần Hoàng L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để đến Tòa án giải quyết vụ kiện nhưng ông L đều vắng mặt không có lý do cũng như không gởi cho Tòa án văn bản nào thể hiện ý kiến của ông L đối với yêu cầu ly hôn của bà K. Do ông L vắng mặt nên Tòa án nhân dân Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh không thể tiến hành thu thập được lời khai của bị đơn theo quy định pháp luật và không thể tiến hành hòa giải được.

Tại phiên toà:

Nguyên đơn bà Vòng Chánh K có đơn xin vắng mặt. Bị đơn ông Trần Hoàng L vắng mặt.

Phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử: Thẩm phán thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn đúng quy định của pháp luật. Việc cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Xác định đúng người tham gia tố tụng. Quyết định đưa vụ án ra xét xử đúng pháp luật. Hội đồng xét xử thực hiện đúng quyền hạn theo quy định của pháp luật. Về chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng quy định pháp luật. Đương sự có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Vòng Chánh K và ông Trần Hoàng L được Ủy ban nhân dân phường Phú Hữu, Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 54, Quyển số I/2013 ngày 19/12/2013. Ngày 17/6/2020, bà K nộp đơn xin ly hôn với ông L, ông L cư trú tại Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. Đây là vụ án tranh chấp về ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 9 theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Trần Hoàng L đã được Toà án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, tống đạt thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, không khai chứng cứ và hoà giải, tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt tại phiên toà không có lý do. Ngày 07/9/2020, nguyên đơn là bà Vòng Chánh K có đơn xin xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2] Về nội dung khởi kiện: Bà Vòng Chánh K yêu cầu ly hôn với ông Trần Hoàng L, bà K tự xác định vợ chồng không có con chung, không có tài sản chung và không có nợ chung. Hội đồng xét xử nhận thấy:

[2.1] Về hôn nhân: Bà Vòng Chánh K và ông Trần Hoàng L chung sống với nhau, có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Phú Hữu, Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 54, Quyển số I/2013 ngày 19/12/2013. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa bà Vòng Chánh K và ông Trần Hoàng L là hợp pháp.

Nguyên nhân bà K yêu cầu ly hôn ông L là do có nhiều điểm khác nhau về quan điểm cũng như cách sống, cách sinh hoạt trong gia đình, ông L không quan tâm lo lắng gia đình, nhiều lần gây nợ không lý do, bà K đã nhiều lần khuyên bảo nhưng ông L không thay đổi. Mặc dù sống chung nhà nhưng vợ chồng sống không có sự quan tâm, chia sẻ, tình cảm phai nhạt lần theo thời gian nên vợ chồng ly thân từ tháng 04/2019 đến nay nên không thể tiếp tục cuộc sống chung với ông L.

Tại khoản 1 Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu chung thủy, tôn trọng, quan tâm chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau cùng nhau chia sẻ thực hiện các công việc trong gia đình”.

Hội đồng xét xử xét, quá trình sống chung giữa đôi bên có xảy ra mâu thuẫn, mức độ mâu thuẫn các bên không thể dung hoà được. Xét thấy tình cảm vợ chồng phải xuất phát từ cả hai phía cùng thương yêu, quý trọng, chăm sóc và cùng có trách nhiệm với nhau. Vợ chồng đã ly thân từ tháng 4 năm 2019 đến nay và kể từ khi bà K nộp đơn ly hôn và quá trình Tòa án giải quyết vụ án ông L đều vắng mặt không lý do, từ đó cho thấy ông L không có biện pháp tích cực để đoàn tụ, không đến Tòa án để cùng tham gia hòa giải đoàn tụ thể hiện không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng. Xét thấy tình trạng mâu thuẫn giữa bà K và ông L trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, việc bà K yêu cầu ly hôn với ông L là có cơ sở chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Bà K tự xác định không có con chung.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà K tự xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do đó, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ.

[3] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Vòng Chánh K phải nộp 300.000 đồng.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Áp dụng Điều 51, 56, 57 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014;

- Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

1.1 Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Vòng Chánh K và ông Trần Hoàng L.

Giấy chứng nhận kết hôn số số 54, Quyển số I/2013 do Ủy ban nhân dân phường Phú Hữu, Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh ngày 19/12/2013 cấp cho bà Vòng Chánh K và ông Trần Hoàng L không còn giá trị pháp lý.

1.2 Về nuôi con chung: Bà Vòng Chánh K tự xác định không có con chung.

1.3 Về tài sản chung và nợ chung: Bà Vòng Chánh K tự xác định không có tài sản chung và không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Vòng Chánh K phải nộp 300.000 đồng, được cấn trừ tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng bà K đã nộp tại Biên lai thu số 0013870 ngày 29/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 9, thành phố Hồ Chi Minh. Bà K đã nộp đủ án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

275
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 887/2020/HNGĐ-ST

Số hiệu:887/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 9 (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về