TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 87/2024/HNGĐ-ST NGÀY 21/03/2024 VỀ LY HÔN
Trong ngày 21 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở TAND huyện Mỹ Đức xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 50/ 2024/ TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 02 năm 2024 về việc kiện ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/ 2024/ QĐXX-ST ngày 04 tháng 3 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 38/2024/QĐST-DS ngày 15/3/2024 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Lê Thị Ý N, sinh năm 1988
Bị đơn: Anh Đàm Trọng D, sinh năm 1985 HKTT: Xóm A, thôn Đ, xã Đ, huyện M, Thành phố Hà Nội.
Chị N có đơn xin xét xử vắng mặt, anh D vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn xin ly hôn và những buổi làm việc tại Toà, nguyên đơn chị Lê Thị Ý N trình bày:
- Về hôn nhân: Chị N và anh Đàm Trọng D tự nguyện kết hôn vào ngày 07/4/2010, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện B, tỉnh Lâm Đồng. Sau khi cưới vợ chồng chung sống với nhau tại gia đình anh D, ở Xóm A, thôn Đ, xã Đ, huyện M, Thành phố Hà Nội, đến năm 2017 vợ chồng vào Lâm Đồng làm ăn, đến năm 2019 anh D và hai con về quê đẻ anh D ở. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, mỗi người có một quan điểm lối sống khác nhau, vợ chồng luôn bất đồng quan điểm sống, hơn nữa anh D chơi bời, nợ lần không quan tâm đến gia đình. Vợ chồng đã ly thân nhiều năm nay không còn quan hệ gì. Nhận thấy tình cảm không còn, hạnh phúc không có, chị N đề nghị được ly hôn với anh D.
- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Đàm Trọng Khôi N1, sinh ngày 17/8/2011; cháu Đàm Trọng Duy P, sinh ngày 27/9/2013, hiện nay cả hai con chung đang ở với anh D. Ly hôn chị N đồng ý để cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cả hai con chung, chị N xin tạm hoãn việc góp phí tổn nuôi con chung với anh D.
- Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về công nợ: Không nợ lần gì ai.
Ngoài ra, do điều kiện nơi ăn trốn ở không có, hoàn cảnh kinh tế khó khăn không thuận tiện trong việc đi lại, chị N xin vắng mặt tại phiên tòa.
Về phía anh Đàm Trọng D trình bày:
- Về hôn nhân: Anh Dũng và chị Lê Thị Ý N tự nguyện kết hôn từ năm 2010. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau ngay tại gia đình anh D, ở Xóm A, thôn Đ, xã Đ, huyện M, Thành phố Hà Nội. Quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do phát triển kinh tế gia đình, bản thân thì anh D có xảy ra một số việc bị tạm giam vài tháng, vợ chồng chấm dứt quan hệ từ tháng 11 năm 2023 cho đến nay không còn quan hệ gì. Nay chị N xin ly hôn với anh, anh D không đồng ý ly hôn.
- Về con chung: Anh D1 xác nhận vợ chồng có 02 con chung là cháu Đàm Trọng Khôi N1, sinh ngày 17/8/2011; cháu Đàm Trọng Duy P, sinh ngày 27/9/2013, hiện nay cả hai con chung đang ở với anh D1. Ly hôn anh D1 xin được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cả hai con chung, không yêu cầu chị N phải cấp dưỡng nuôi con chung.
- Về tài sản chung: Không có, nên không yêu cầu Tòa giải quyết.
- Về công nợ chung: Không có, nên không yêu cầu Tòa giải quyết.
Đại diện VKSND huyện Mỹ Đức tham gia phiên toà phát biểu về việc giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định về thủ tục tố tụng của Pháp luật TTDS trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ nghĩa vụ tố tụng, bị đơn chưa chấp hành đầy đủ nghĩa vụ tố tụng của mình.
Về nội dung: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lê Thị Ý N, cho N được ly hôn với anh Đàm Trọng D; giao cả hai con chung là cháu Đàm Trọng Khôi Nl, sinh ngày 17/8/2011; cháu Đàm Trọng Duy P, sinh ngày 27/9/2013 cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, tạm hoãn việc góp phí tổn nuôi con cho chị N và không xem xét quan hệ tài sản chung vợ chồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Về tố tụng: Mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nhưng anh Đàm Trọng D vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Theo quy định tại Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.
Về hôn nhân: Chị Lê Thị Ý N và anh Đàm Trọng D tự nguyện kết hôn ngày 07/4/2010, bằng việc đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện B, tỉnh Lâm Đồng, đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn hai anh, chị chung sống với nhau ngay tại gia đình anh D, ở Xóm A, thôn Đ, xã Đ, huyện M, Thành phố Hà Nội. Quan hệ vợ chồng hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, mỗi người có một quan điểm lối sống khác nhau, vợ chồng luôn bất đồng quan điểm sống, khiến chị N quyết định ly thân anh bằng cách đi ở chỗ khác để thoát ly đời sống chung vợ chồng. Quá trình giải quyết anh D không đồng ý ly hôn, nhung khi Tòa án triệu tập để hòa giải vợ chồng về đoàn tụ thì anh D không đến Tòa, không chỉ thể hiện thái độ không tôn trọng cơ quan tố tụng mà ở một góc độ khác còn thể hiện ý thức không mong muốn hòa giải đoàn tụ vợ chồng. Xác minh tại nơi cư trú, chính quyền địa phương cũng xác nhận, mâu thuẫn giữa các bên là có, hiện tại chị N không còn chung sống với anh D nữa. Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa chị N và anh D đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức, không còn ý nghĩa. Vì vậy, yêu cầu của chị N xin ly hôn anh D là có cơ sở, nên áp dụng các quy định tại các Điều 51, 56, 57 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 39 của Bộ luật dân sự chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lê Thị Ý N, cho chị N được ly hôn với anh Đàm Trọng D.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Đàm Trọng Khôi N1, sinh ngày 17/8/2011; cháu Đàm Trọng Duy P, sinh ngày 27/9/2013, hiện nay cả hai con chung đang ở với anh D. Quá trình giải quyết vụ án, anh D xin được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cả hai con chung, chị N đồng ý để anh D trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cả hai con chung, hơn nữa các con chung đều có nguyện vọng xin được ở với anh D. Xét sự tự nguyện của các bên là phù hợp và không trái với quy định của Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình; HĐXX nhất trí giao cháu Đàm Trọng Khôi Nl, cháu Đàm Trọng Duy p cho anh D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. về việc cấp dưỡng nuôi con: Do anh D không yêu cầu chị N phải cấp dưỡng nuôi con, nên tạm hoãn việc góp phí tổn nuôi con cho chị N, đến khi anh D có yêu cầu hoặc có sự thay đổi theo quy định của pháp luật.
Về tài sản chung: Chị N, anh D đều không yêu cầu, nên Tòa không xét.
Về công nợ chung: Không có, nên Tòa không xét.
Về án phí: Chị Lê Thị Ý N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Điều 39 BLDS; Điều 147 Bộ luật TTDS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án, tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Cho Lê Thị Ý N được ly hôn anh Đàm Trọng D.
2. Về con chung: Giao anh Đàm Trọng D trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cả hai con chung là cháu Đàm Trọng Khôi N1, sinh ngày 17/8/2011; cháu Đàm Trọng Duy P, sinh ngày 27/9/2013. Tạm hoãn việc góp phí tổn nuôi con cho chị N đến khi anh D có yêu cầu hoặc có sự thay đổi theo quy định của pháp luật. Chị N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Lê Thị Ý N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được đối trừ vào khoản tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp tại biên thu tạm ứng án phí số 0007717 ngày 23/02/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Đức. Chị N đã nộp đủ án phí án phí ly hôn sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về ly hôn số 87/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 87/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Đức - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về