Bản án về ly hôn số 80/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 80/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 21 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 412/2022/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2022/QĐXX-ST ngày 29 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên toà số 143/2022/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lê Chung Nhật H, sinh năm: 1997; nơi cư trú: số 54/3 đường P, phường A, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. (Có mặt).

Bị đơn: Anh Tăng Xuân H1, sinh năm: 1989; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 22B đường T, phường E, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; nơi ở: Số 70 đường P, phường H, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 20/6/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lê Chung Nhật H trình bày thì: chị H và anh Tăng Xuân H1 tổ chức lễ cưới và chung sống với nhau từ năm 2018 đến năm 2020 mới đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường E, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Hôn nhân do hai bên tự nguyện, có tổ chức lễ cưới. Sau khi tổ chức lễ cưới thì vợ chồng thuê phòng trọ ở riêng nhiều nơi đến năm 2021 thì chuyển đến phòng trọ ở địa chỉ 70 đường P, phường H, thành phố Đ sống. Trong thời gian chung sống thì vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, anh H1 thường xuyên đi chơi, bay lắc qua đêm không về, không chăm lo đến gia đình, có quan hệ ngoại tình và thường xuyên đánh đập và đuổi chị H đi. Đến ngày 18/3/2022, sau khi bị anh H1 đánh thì chị H đã sống riêng và vợ chồng đã sống ly thân từ đó cho đến nay, vợ chồng không còn quan tâm, trách nhiệm gì đến nhau nữa. Nay chị H xác định mâu thuẫn vợ chồng không thể khắc phục, vợ chồng không thể hàn gắn được nữa nên yêu cầu được ly hôn với anh H1.

- Về con chung: Chị H xác định vợ chồng có 01 con chung là cháu Tăng Lê Xuân P sinh ngày 25/9/2020; hiện con đang ở với chị H. Ly hôn, chị H yêu cầu được nuôi con vì con đang còn nhỏ và cháu bị bệnh tim bẩm sinh. Chị H không yêu cầu anh H1 cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị H xác định không có.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh H1 đã được Toà án thông báo và tống đạt hợp lệ nhưng anh H1 không đến Toà và cũng không cung cấp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của chị H nên Toà án không thu thập được ý kiến cũng như lời khai của anh H1 và không tiến hành hoà giải được.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị H xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, hai vợ chồng đã sống ly thân, không còn khả năng hàn gắn nên vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn với anh H1. Chị H yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu anh H1 cấp dưỡng nuôi con.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng phát biểu quan điểm tại phiên tòa:

Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý cũng như giải quyết vụ án, thì Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình được quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên toà, bị đơn anh H1 đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn là bảo đảm theo quy định tại điểm b khoản 2 điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Xét mâu thuẫn giữa chị H và anh H1 có xảy ra trong thực tế và đã trầm trọng. Vợ chồng sống đã sống ly thân, không còn quan tâm, trách nhiệm gì với nhau, tình cảm vợ chồng không còn, không còn khả năng hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H, cho chị H và anh H1 ly hôn; giao con chung là cháu Tăng Lê Xuân P sinh ngày 25/9/2020 cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi con đủ tuổi thành niên. Chị H xác định đủ khả năng nuôi con, không yêu cầu anh H1 cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập. Về tài sản chung và nợ chung: Chị H xác định không có nên không đề cập xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Toà án đã tống đạt hợp lệ lần thứ hai đối với bị đơn anh Tăng Xuân H1 để tham gia phiên toà sơ thẩm, tuy nhiên anh H1 vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Chung Nhật H thì chị H và anh Tăng Xuân H1 có đăng ký kết hôn năm 2020, trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và được Uỷ ban nhân dân phường E, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng cấp giấy chứng nhận kết hôn nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Vợ chồng sống hoà thuận hạnh phúc được một thời gian ngắn thì thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân theo chị H trình bày là do anh H1 thường xuyên đi chơi qua đêm không về, không chăm lo đến gia đình, có quan hệ ngoại tình và thường xuyên đánh đập chị H. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 3/2022 cho đến nay, không còn quan tâm, trách nhiệm gì đến nhau nữa. Nay chị H xác định vợ chồng không thể khắc phục được mâu thuẫn, không còn khả năng hàn gắn nên yêu cầu được ly hôn với anh H1. Bị đơn anh H1 đã được Tòa án thông báo nhiều lần nhưng vẫn không đến Tòa để hòa giải, tại phiên tòa hôm nay anh H1 vẫn vắng mặt không có lý do là thể hiện sự bỏ mặc, không mong muốn vợ chồng hàn gắn. Xét thấy mâu thuẫn giữa chị H và anh H1 là có xảy ra trong thực tế và đã trầm trọng, không thể khắc phục được mâu thuẫn, không còn khả năng hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị H yêu cầu ly hôn anh H1 là có cơ sở và đề nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ và phù hợp. Do đó, căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H, cho chị H và anh H1 ly hôn.

[3] Về con chung: Chị H và anh H1 có 01 con chung là cháu Tăng Lê Xuân P, sinh ngày 25/9/2020. Ly hôn, chị H yêu cầu được nuôi con. Xét thấy cháu Phúc, hiện đang còn nhỏ, sống với mẹ đã ổn định, cháu đang bị bệnh tim bẩm sinh, cần sự quan tâm, chăm sóc của mẹ nhiều hơn nên để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con, căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, giao con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con đủ tuổi thành niên.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên toà, chị H xác định đủ khả năng nuôi con, không yêu cầu anh H1 cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị H xác định không có nên không đề cập. [5] Về án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 điều 28, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Lê Chung Nhật H. Cho chị Lê Chung Nhật H và anh Tăng Xuân H1 ly hôn.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Tăng Lê Xuân P, sinh ngày 25/9/2020 cho chị Lê Chung Nhật H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ tuổi thành niên.

Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, nghĩa vụ, quyền của cha mẹ trực tiếp, không trực tiếp nuôi con, thay đổi người trực tiếp nuôi con và thay đổi cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

3. Về án phí: Chị Lê Chung Nhật H phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm (được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị H đã nộp theo biên lai thu số 0001968 ngày 01 tháng 7 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn vắng mặt tại phiên toà được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

5. Trường hợp quyết định được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

 

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

100
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 80/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:80/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về