TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYÊN ĐẠI TỪ, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 76/2023/HNGĐ-ST NGÀY 29/12/2023 VỀ LY HÔN
Ngày 29/12/2023, tại Tòa án nhân dân huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân & gia đình thụ lý số: 300/2023/HNGĐ-ST ngày 05/10/2023, về việc “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72/2023/QĐXXST-HN&GĐ, ngày 28/11/2023, giữa:
1. Nguyên đơn: Chị Bùi Như Đ, sinh năm 1978;
ĐKHKTT: Xóm C, xã P, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.
2. Bị đơn: Anh Tô Thanh T, sinh năm 1971;
ĐKHKTT: Xóm C, xã P, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.
(Có mặt chị Đ, vắng mặt anh T tại phiên toà).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải, tại phiên tòa nguyên đơn chị Bùi Như Đ trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh T kết hôn năm 1997, có tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND xã N, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. Sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, đến khoảng năm 2016 chị phát hiện ra anh T nghiện ma túy đồng thời không tu chí làm ăn, chị có khuyên bảo nhiều lần để anh T từ bỏ ma túy hoặc đi cai nghiện cộng đồng nhưng anh T không thực hiện được. Mặc dù anh T cũng được hai bên gia đình khuyên bảo từ bỏ ma túy, bản thân anh T hứa từ bỏ nhưng cũng không thực hiện được mà ngày càng nghiện nặng cụ thể hít Heroine. Do anh T nghiện ma túy nên đời sống kinh tế gặp nhiều khó khăn, vợ chồng luôn bất hòa quan điểm sống. Từ năm 2020 đến nay vợ chồng chị ly thân mỗi người một nơi, không ai quan tâm đến cuộc sống của ai. Hiện chị cũng không ở chung nhà với anh T mà đi làm ăn nơi khác, nhiều lần chị quay về xem thái độ và ý thức của anh T có thay đổi không nhưng anh vẫn thờ ơ, không sửa đổi vẫn nghiện ngập ma túy và không có việc làm, không có thu nhập. Chị đề nghị được ly hôn anh T cũng không thể hiện quan điểm đồng ý hay không đồng ý. Thời điểm hiện nay chị cũng xác định vợ chồng ly thân gần 3 năm không còn tình cảm để đoàn tụ gia đình. Chị đề nghị Tòa án nhân dân huyện Đại Từ giải quyết cho ly hôn đơn phương để ổn định cuộc sống vì hôn nhân không có hạnh phúc.
Về con chung: Quá trình chung sống chị và anh T có hai con chung: Tô Ánh N, sinh năm 1998; Tô Ngọc H, sinh năm 2003. Hiện các con đã trưởng thành nên không đặt ra việc giải quyết.
Về tài sản chung: Trong quá trình chung sống vợ chồng tạo lập nhà và đất ở, hiện anh T đang trực tiếp quản lý và sử dụng. Tuy nhiên, chị không yêu cầu Tòa án phân chia mà thỏa thuận để lại cho anh T và các con sử dụng nên không kê khai.
Về nợ chung, khoản cho vay chung: Không có, không đặt ra việc giải quyết.
Tại bản tự khai bị đơn anh Tô Thanh T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn năm 1997, cuộc sống chung sau khi kết hôn hạnh phúc, không có mâu thuẫn, trong thời gian anh làm ăn buôn bán gỗ không may thua lỗ nên anh mắc nợ, kinh tế sa sút anh phải thường xuyên đi làm ăn xa nhà để phục hồi kinh tế, chị Đ có đơn ly hôn anh không đồng ý mà mong muốn đoàn tụ. Trường hợp chị Đ cương quyết ly hôn anh vẫn không đồng ý mà mong muốn được hòa giải đoàn tụ gia đình. Do điều kiện phải đi làm ăn xa nên anh từ chối tham gia phiên hòa giải do Tòa án tiến hành cũng như các phiên tòa anh xin được vắng mặt.
Về con chung: Vợ chồng có hai con chung như chị Đ trình bày. Các con đã trưởng thành nên không đặt ra việc giải quyết.
Về tài sản chung: Do không đồng ý ly hôn nên anh không có ý kiến gì về tài sản.
Về khoản nợ chung, cho vay chung: Không có.
Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Đại Từ phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng, trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, của Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng quy định tại các Điều 26, 35, 39, 68, 96, 97 và Điều 195 của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn chưa thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Đại diện VKS không có ý kiến đề nghị, kiến nghị gì.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình; Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016, ra bản án với các nội dung sau:
- Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Đ được ly hôn anh T.
- Về con chung: Đã trưởng thành.
- Về tài sản chung: Không có nên không đặt ra việc giải quyết.
- Về nợ chung, các khoản cho vay chung: Không có, không đặt ra việc giải quyết.
- Án phí: Chị Đ phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.
- Quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đại Từ phát biểu quan điểm chấp hành pháp luật tố tụng và quan điểm về việc giải quyết toàn bộ vụ án. Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là vụ án Hôn nhân và gia đình về “Ly hôn”. Bị đơn anh Tô Thanh T có hộ khẩu thường trú tại xóm C, xã P, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyện. Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự xác định thẩm quyền giải quyết, xét xử của Tòa án nhân dân huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.
[2]. Về thủ tục tố tụng:
[2.1]. Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên toà, bị đơn, anh Tô Thanh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ hai không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan; Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, Hội đồng xét xử thống nhất với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn trong vụ án.
[2.2]. Về thủ tục hòa giải: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành mở phiên họp về việc kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Tuy nhiên, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bị đơn không đồng ý ly hôn nhưng vắng mặt không có lý do nên không có quan điểm trình bày tại phiên hoà giải đoàn tụ do Tòa án tiến hành. Tòa án lập Biên bản không tiến hành hoà giải được và tiến hành các thủ tục để mở phiên tòa xét xử vụ án theo quy định.
[2.3]. Về sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành một số biện pháp thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 97 Bộ luật tố tụng dân sự nên Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[3]. Về nội dung vụ án:
[3.1]. Về quan hệ hôn nhân: Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Bùi Như Đ, Hội đồng xét xử thấy: Chị Bùi Nhu Đ và anh Tô Thanh T kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã N, huyện Đ và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 06/3/1997 nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Theo chị Đ, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng do anh T nghiện ma túy, kèm theo anh T thường hay gây bạo lực đối với chị, vì nghiện ma túy nên kinh tế gia đình sa sút, chị phải bỏ nhà về nhà con gái sinh sống từ năm 2021 đến nay. Anh T cho rằng vợ chồng không mâu thuẫn, chỉ vì kinh tế khó khăn nên thường xuyên vắng nhà, mục đích làm kinh tế. Do vậy chị Đ có đơn ly hôn anh không nhất trí, đề nghị Tòa án hòa giải đoàn tụ.
Hội đồng xét xử thấy, nguyện vọng xin đoàn tụ gia đình của anh T là chính đáng, bởi mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc; để đạt được mục đích đó vợ chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ và tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt, xong bản thân chị Đ và anh T không chung sống cùng nhau từ nhiều năm nay. Điều này phù hợp với kết quả thu thập chứng cứ của Tòa án, cụ thể:
Kết quả xác minh tình trạng hôn nhân của chị Đ và anh T với chính quyền nơi cư trú, lời xác nhận của ông Triệu Minh T1 - là trưởng xóm C, xã P: Chị Đ và anh T hiện ly thân, nhà thường xuyên vắng mặt hai vợ chồng. Nguyên nhân vợ chồng mâu thuẫn chủ yếu do anh T nghiện ma túy nhiều năm nay và cũng thường xuyên gây bạo lực nên chị Đ phải bỏ nhà đi ở với con gái tại Hà Nội từ năm 2021, việc anh T trình bầy vợ chồng hạnh phúc không có mâu thuẫn là không đúng.
Tòa án nhiều lần triệu tập anh T để hoà giải cho anh chị về đoàn tụ gia đình nhưng anh T vẫn vắng mặt, cũng tại bản tự khai anh T thể hiện từ chối tham gia tố tụng và vắng mặt các buổi làm việc do Tòa án triệu tập, không đến Tòa án để đưa ra những biện pháp khắc phục mâu thuẫn vợ chồng. Điều này thể hiện anh T không có thiện chí đoàn tụ và xây dựng hạnh phúc gia đình với chị Đ.
Tại phiên tòa, cho thấy thái độ cương quyết ly hôn của chị Đ đối với anh T và chị khẳng định không còn tình cảm gì với anh T. Nếu không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đ mà cho vợ chồng anh chị đoàn tụ thì cũng không thể xây dựng gia đình trọn vẹn như ban đầu. Hơn nữa việc anh T không đồng ý ly hôn nhưng cũng không có biện pháp gì để khắc phục mâu thuẫn vợ chồng, không có cách nào để chị Đ thay đổi suy nghĩ để cùng anh hàn gắn tình cảm vợ chồng.
Thấy rằng: Theo quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; có nghĩa vụ chung sống với nhau... ”.
Theo khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hoà giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”.
Từ những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét thấy có đủ căn cứ để xác định tình trạng hôn nhân giữa chị Đ1 và anh T đã mâu thuẫn trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài, việc duy trì quan hệ hôn nhân này cũng không mang lại hạnh phúc cho cả 2 bên. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Đ, cho chị Đ được ly hôn với anh T là phù hợp tại Điều 19, Điều 51 và Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[3.2]. Về con chung: Quá trình chung sống chị Đ và anh T có 02 con chung là Tô Ánh N, sinh năm 1998; Tô Ngọc H, sinh năm 2003. Các con chung đều đã trưởng thành (đủ 18 tuổi), có khả năng lao động, học tập nên không đặt ra việc giải quyết.
[3.3]. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét trong vụ án.
[3.4]. Về khoản nợ chung, các khoản cho vay chung: Không có nên không đặt ra việc giải quyết.
[4]. Về án phí: Chị Đ phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.
[5]. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
[6]. Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đại Từ tại phiên toà là phù hợp nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 178, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 19, 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Bùi Như Đ với anh Tô Thanh T.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Như Đ được ly hôn với anh Tô Thanh T.
2. Về con chung: Các con chung đều đã trưởng thành, không đặt ra việc giải quyết.
3. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
4. Về nợ chung, cho vay chung: Không có, không đặt ra việc giải quyết.
5. Về án phí: Chị Bùi Như Đ phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, chị Đ được đối trừ vào khoản tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đại Từ, theo biên lai số 0005112 ngày 05/10/2023. Xác nhận chị Đ đã nộp đủ.
6. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt chị Đ tại phiên toà. Báo cho biết chị Đ có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Anh Tô Thanh T vắng mặt tại phiên toà. Báo cho biết anh T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết công khai hợp lệ theo quy định của pháp luật./.
Bản án về ly hôn số 76/2023/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 76/2023/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đại Từ - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về