Bản án về ly hôn số 75/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 75/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/09/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 16 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ dân sự thụ lý số 310/2022/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 5 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 90/2022/QĐXX-ST ngày 25 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

-Nguyên đơn: Chị Giản Yến C, sinh năm: 1996; nơi cư trú: số 124B ( số mới 161) đường H, phường F, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. (Có mặt).

- Bị đơn: Anh Nguyễn Trọng H, sinh năm: 1993; nơi cư trú: số 25 đường K, phường K, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 10/5/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Giản Yến C trình bày: Chị C và anh Nguyễn Trọng H kết hôn năm 2016, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường K, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Hôn nhân do hai bên tự nguyện, có tổ chức lễ cưới. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung với gia đình bố mẹ anh H ở 25 K, phường K, thành phố Đ. Cuộc sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc được đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng có những bất đồng về quan điểm, lối sống, thường xuyên xảy ra cãi vã, không tìm được tiếng nói chung. Hai vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 10/2020 đến nay, không còn quan tâm, trách nhiệm gì với nhau nữa. Nay chị C xác định vợ chồng không còn tình cảm, không còn khả năng hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn với anh H.

Theo bản tự khai ngày 28/7/2022 và đơn xin vắng mặt ngày 12/8/2022 của bị đơn anh Nguyễn Trọng H thì: Anh H thống nhất về thời điểm kết hôn, nơi đăng ký kết hôn và việc tự nguyện kết hôn giữa anh và chị C như chị C trình bày. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung với gia đình bố mẹ của anh. Vợ chồng sống hòa thuận, hạnh phúc được đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung. Hai vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 10/2020 cho đến nay. Nay anh H cũng đồng ý ly hôn với chị C.

Về con chung: Chị C và anh H xác định vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Ngọc Kim N, sinh ngày 26/5/2018, hiện con đang ở với chị C. Ly hôn, chị C yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Anh H đồng ý giao con chung cho chị C trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Kim N được 5 tuổi thì về ở với anh H.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị C và anh H xác định không có.

Tòa án đã mở phiên hoà giải tuy nhiên anh H có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt nên Toà án không tiến hành hoà giải được.

Tại phiên tòa hôm nay, Nguyên đơn chị C xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không còn quan tâm, trách nhiệm gì với nhau, không còn khả năng hàn gắn nên vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn với với anh H. Chị C yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con vì chị đủ khả năng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung, chị C không có nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng phát biểu quan điểm tại phiên tòa:

Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý cũng như giải quyết vụ án, thì Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình được quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên toà, bị đơn anh H đã được triệu tập hợp lệ và có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn là bảo đảm theo quy định tại khoản 1 điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Xét mâu thuẫn giữa chị C và anh H có xảy ra trong thực tế và đã trầm trọng. Vợ chồng sống đã sống ly thân từ tháng 10/2020 cho đến nay, không còn quan tâm, trách nhiệm gì với nhau, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không còn khả năng hàn gắn. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị C, xử cho chị C và anh H ly hôn. Giao con chung là cháu Nguyễn Ngọc Kim N, sinh ngày 26/5/2018 cho chị C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi con đủ tuổi thành niên. Về cấp dưỡng nuôi con, chị C xác định đủ khả năng nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng nên không đề cập xem xét. Về tài sản chung và nợ chung thì chị C và anh H đều xác định không có nên không đề cập xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn anh H có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt nên căn cứ khoản 1 điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Giản Yến C và anh Nguyễn Trọng H kết hôn vào năm 2016 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Uỷ ban nhân dân phường K, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng cấp giấy chứng nhận kết hôn nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Cuộc sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc được đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng có những bất đồng về quan điểm, lối sống, thường xuyên xảy ra cãi vã, không tìm được tiếng nói chung. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 10/2020 cho đến nay, không còn quan tâm, trách nhiệm gì với nhau nữa. Xét thấy mâu thuẫn giữa chị C và anh H là có xảy ra, kéo dài và đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị C yêu cầu ly hôn với anh H là có cơ sở. Anh H cũng đồng ý ly hôn. Tuy nhiên, do anh H vắng mặt tại phiên toà nên căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị C, cho chị C và anh H ly hôn.

[3] Về con chung: Chị C và anh H có 01 con chung là cháu Nguyễn Ngọc Kim N, sinh ngày 26/5/2018. Ly hôn, chị C có yêu cầu được nuôi con. Anh H cũng đồng ý giao con cho chị C nuôi dưỡng đến năm cháu N được 5 tuổi thì giao cho anh H nuôi. Xét thấy cháu N con còn nhỏ, cần sự chăm sóc của mẹ nhiều hơn nên để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con, căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, giao con cho chị C trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con đủ tuổi thành niên.

Việc anh H yêu cầu thay đổi quyền nuôi con khi con đủ 5 tuổi sẽ giải quyết bằng vụ án khác nếu có tranh chấp và yêu cầu khởi kiện.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị C xác định đủ khả năng nuôi con, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị C và anh H xác định không có nên không đề cập xem xét.

[6] Về án phí: Chị C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 điều 28, Điều 147 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Giản Yến C. Cho chị Giản Yến C và anh Nguyễn Trọng H ly hôn.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Ngọc Kim N, sinh ngày 26/5/2018 cho chị Giản Yến C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi con đủ tuổi thành niên.

Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, nghĩa vụ, quyền của cha mẹ trực tiếp, không trực tiếp nuôi con, thay đổi người trực tiếp nuôi con và thay đổi cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

3. Về án phí: Chị Giản Yến C phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm (được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị C đã nộp theo biên lai thu số 0001823 ngày 18 tháng 5 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn vắng mặt tại phiên toà được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

5. Trường hợp quyết định được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 75/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:75/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:16/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về