TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HIỆP HÒA, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 74/2021/HNGĐ-ST NGÀY 12/10/2021 VỀ LY HÔN
Ngày 12 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 148/2021/TLST- HNGĐ ngày 05 tháng 7 năm 2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2021/QĐXX-HNGĐ ngày 06/9/2021, giữa các đương sự:
1.1. Nguyên đơn: Anh Trần Văn T, sinh năm 1979 Địa chỉ: Thôn T, xã H, Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang (có mặt)
1.2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1987 Địa chỉ: Thôn T, xã H, Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn xin ly hôn ghi ngày 24/6/2021, Bản tự khai ngày 06/7/2021, nguyên đơn là anh Trần Văn T trình bày: anh và chị Nguyễn Thị H kết hôn với nhau ngày 19/9/2007 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Hoàng Thanh, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Sau ngày cưới anh chị đoàn tụ ngay, vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 2019 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung trong việc làm ăn kinh tế, chị H tự tham gia vào hội nhóm bán hàng đa cấp làm cho sa sút về kinh tế. Anh và hai bên gia đình cũng đã khuyên bảo nhiều lần nhưng chị H không đổi dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng, không còn tình cảm với nhau. Từ khoảng tháng 3/2020, chị H bỏ đi khỏi nhà, vợ chồng anh chị ly thân nhau từ thời gian đó. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh yêu cầu được ly hôn chị H.
Về con chung: Anh T trình bày, vợ chồng anh chị có hai con chung là Trần Thị Thu Trang, sinh ngày 10/6/2010 và Trần Thị Chinh, sinh ngày 01/5/2012, hiện đang được anh nuôi dưỡng. Khi ly hôn anh đề nghị được nuôi cả hai con chung, cấp dưỡng nuôi con không đặt ra.
Về tài sản: Anh T không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.
Về phía chị Nguyễn Thị H là bị đơn trong vụ án, mặc dù đã được Tòa án Thông báo về việ thụ lý vụ án và giao các văn bản tố tụng nhưng chị H không đến Tòa án làm việc, không gửi cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa, nguyên đơn là anh Trần Văn T giữ nguyên yêu cầu ly hôn và yêu cầu về việc nuôi con chung. Bị đơn là chị Nguyễn Thị H vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiêp Hoà tham gia phiên toà nhận xét quá trình tiến hành tố tụng, xét xử vụ án, Toà án và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên có ý thức chấp hành pháp lụât. Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 28, 147, 227, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 18, 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, xử chấp nhận yêu cầu của anh Trần Văn T, xử cho anh Trần Văn T được ly hôn chị Nguyễn Thị H.
- Về con chung: Giao cho anh Trần Văn T trực tiếp nuôi cả hai con chung là Trần Thị Thu Trang, sinh ngày 10/6/2010 và Trần Thị Chinh, sinh ngày 01/5/2012. Cấp dưỡng nuôi con không đặt ra do các đương sự không yêu cầu.
- Án phí: Anh Trần Văn T phải nộp án phí ly hôn theo quy định của pháp luật, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Mặc dù bị đơn là chị Nguyễn Thị H vắng mặt nhưng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nên cần áp dụng khoản 2 điều 227 - Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt chị H.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về quan hệ hôn nhân: Anh Trần Văn T và chị Nguyễn Thị H kết hôn với nhau tháng 9/2007 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, mặc dù anh chị có thời gian chung sống hòa thuận và đã có con chung nhưng đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng bắt nguồn từ bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung trong việc làm ăn kinh tế dẫn đến xô sát, bất hòa trong cuộc sống, sinh hoạt vợ chồng. Mặc dù đã được đôi bên gia đình khuyên bảo, hòa giải nhưng không có kết quả, anh T xác định tình cảm vợ chồng đã hết nên yêu cầu ly hôn. Về phía chị H không đến Tòa án làm việc và thạm gia phiên hòa giải, cũng không không có văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của anh T, chứng tỏ chị H không có nguyện vọng đoàn tụ. Vì vậy, xét mâu thuẫn vợ chồng giữa anh chị đã trầm trọng, đời sống cung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần áp dụng quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình để chấp nhận yêu cầu của anh T, xử cho anh T được ly hôn chị H.
[2]. Về con chung: vợ chồng anh chị có hai con chung là Trần Thị Thu Trang, sinh ngày 10/6/2010 và Trần Thị Chinh, sinh ngày 01/5/2012, hiện đang được anh T nuôi dưỡng. Nay anh T yêu cầu được trực tiếp nuôi cả hai con, chị Thoa không đưa ra ý kiến yêu cầu về việc nuôi con, các con của anh chị đều có nguyện vọng được ở với anh T, vì vậy, cần giao cho anh T được trực tiếp nuôi cả hai con là phù hợp pháp luật. Về cấp dưỡng nuôi con chung, các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra cho đến khi đương sự có yêu cầu.
[3]. Về tài sản: Anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Sau này nếu phát sinh tranh chấp sẽ được xem xét giải quyết bằng vụ án khác.
[4]. Về án phí: Anh T không thuộc trường hợp được miễn nộp án phí nên anh T phải nộp án phí ly hôn theo quy định của pháp luật. Số tiền anh T đã nộp tạm ứng án phí được khấu trừ vào số tiền án phí anh T phải nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Điều 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; các Điều 28, 147, 227, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 18, 27 Nghị quyết 326/2016 UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016, xử:
1/ Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Trần Văn T được ly hôn chị Nguyễn Thị H.
2/ Về con chung: Giao cho anh Trần Văn T trực tiếp nuôi cả hai con chung là Trần Thị Thu Trang, sinh ngày 10/6/2010 và Trần Thị Chinh, sinh ngày 01/5/2012. Cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra cho đến khi các đương sự có yêu cầu.
3/ Án phí: Anh Trần Văn T phải nộp 300.000đ án phí ly hôn, được khấu trừ vào số tiền anh T đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số 0000729 ngày 05/7/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hiệp Hòa (xác nhận anh T đã nộp đủ tiền án phí).
Báo cho đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
Bản án về ly hôn số 74/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 74/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hiệp Hòa - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 12/10/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về