Bản án về ly hôn số 59/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI 

BẢN ÁN 59/2021/HNGĐ-ST NGÀY 10/11/2021 VỀ LY HÔN 

Ngày 10 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn - TP. Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 306/2021/TLST - HNGĐ ngày 02/7/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2021/QĐST - HNGĐ ngày 14/10/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn:Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1991;

Nơi cư trú: Thôn LC, xã XG, huyện Sóc Sơn, TP. Hà Nội;

Bịđơn:Anh Vương Văn Tr, sinh năm 1985;

Nơi cư trú: Thôn LC, xã XG, huyện Sóc Sơn, TP. Hà Nội. Có mặt chị H, anh Tr.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 29/6/2021 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Vương Văn Tr tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn, đăng ký kết hôn tại trụ sở UBND xã XG, huyện Sóc Sơn, TP Hà Nội ngày 23/3/2015. Sau khi kết hôn, anh chị sống riêng trên nhà đất của bố mẹ chồng tại thôn LC, xã XG, huyện Sóc Sơn, TP Hà Nội. Vợ chồng chung sống bình thường đến cuối năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn dokhi kết hôn chị không có tình cảm với anh Tr, anh Tr không biết lo toan công việc gia đình, một mình chị phải lo toan mọi việc, đồng thời chị và mẹ chồng không hòa hợp, khắc khẩu, anh Tr đã không động viên, chia sẻ với chị lại còn không phân biệt đúng sai, luôn bênh vực mẹ nên vợ chồng ngày càng xa cách. Sau khi mâu thuẫn nảy sinh, mẹ chồng chị còn nói xấu chị khắp nơi khiến chị và bố mẹ bị đàm tiếu, không khí gia đình căng thẳng, mệt mỏi. Anh chị đã được gia đìnhkhuyên nhủ, hòa giải nhưng không có kết quả nên vợ chồng sống ly thân từ tháng 03/2020 đến nay. Trong thời gian ly thân, anh chị vẫn sống cùng một nhà nhưng quan hệ vợ chồng không cải thiện được. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Tr.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Vương Đức D, sinh ngày 17/10/2020. Ly hôn chị đề nghị Tòa án giao con chung cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, chị không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, đất sản xuất nông nghiệp và công sức đóng góp: Chị xin tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Vợ chồng không có nợ chung.

* Tại bản tự khai ngày 14/10/2021 và trong quá trình xét xử, bị đơn là anh Vương Văn Tr trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh xác nhận lời khai của chị H về thời gian vợ chồng kết hôn, nơi đăng ký kết hôn và nơi chung sống của vợ chồng. Theo anh, sau khi kết hôn, anh chị chung sống hạnh phúc đến cuối năm 2020 thì xảy ra mâu thuẫndo chị H và mẹ anh bất đồng quan điểm trong cách chăm sóc con, anh cũng đã lựa lời nói với mẹ anh nhưng quan hệ giữa chị H và mẹ chồng không cải thiện được, tình cảm vợ chồng cũng lạnh nhạt, anh chị đã sống ly thân từ tháng 10/2020 đến nay. Đến tháng 6/2021, giữa chị H và mẹ anh mâu thuẫn gay gắt, chị H gửi con cho bố mẹ đẻ chăm sóc và không quan tâm gì đến gia đình anh. Sau khi chị H gửi đơn ly hôn, bố mẹ anh cũng tổ chức họp gia đình và hòa giải cho vợ chồng nhưng không có kết quả. Nay anh xác định vẫn còn yêu chị H nên anh không đồng ý ly hôn, đề nghị Tòa án hòa giải cho anh chị để vợ chồng đoàn tụ cùng nhau nuôi dạy con chung.

Về con chung: Anh chị 01 con chung như chị H khai. Ly hôn, do cháu D còn nhỏ nên anh đồng ý để chị H nuôi con và anh xin cấp dưỡng nuôi con 5.000.000 đồng/tháng.

Về tài sản chung, đất nông nghiệp, công sức đóng góp và nợ chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:uyng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và người tham gia tố tụng: Kể từ ngày nhận đơn, thụ lý vụ án, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và các đương sự đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình xử:

+ Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị H, cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Vương Văn Tr.

+ Về con chung: Giao con chung là Vương Đức D, sinh ngày 17/10/2020 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của anh Tr cấp dưỡng nuôi con 5.000.000 đồng/tháng.

+Về tài sản chung, công sức đóng góp, công nợ và đất sản xuất nông nghiệp: Chị H, anh Tr không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

+Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở kết quả tranh tụng, ý kiến của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về thẩm quyền: Bị đơn trong vụ án là anh Vương Văn Tr đăng ký hộ khẩu thường trú và hiện đang cư trú tại địa chỉ: Thôn LC, xã XG, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, TP Hà Nội giải quyết vụ án này là đúng thẩm quyền.

[2]Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Vương Văn Tr kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại trụ sở UBND xã XG, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội theo Giấy chứng nhận kết hôn số 27, quyển số 01/2015 ngày 23/3/2015. Hôn nhân giữa chị H, anh Tr là hợp pháp.

Sau khi kết hôn, anh chị chung sống đến năm 2020 thì mâu thuẫn trầm trọng, chị H xin được ly hôn, anh Tr không đồng ý ly hôn.

Xét yêu cầu của xin ly hôn của chị H, Hội đồng xét xử nhận thấy: Lời khai của chị H, anh Tr cũng như xác minh tại địa pH nơi anh chị cư trú thể hiện mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ mâu thuẫn mẹ chồng, nàng dâu giữa chị H và mẹ anh Tr khiến cuộc sống gia đình xung đột, căng thẳng. Bản thân anh Tr khi đó đã không bình tĩnh động viên, chia sẻ, khuyên giải chị H và thuyết phục mẹ mình để hàn gắn tình cảm gia đình mà lại cư xử thiên lệnh, dung túng, bất lực trước mâu thuẫn đó khiến tình cảm vợ chồng rạn nứt, xa cách, đồng thời kéo theo cả mâu thuẫn giữa hai bên gia đình. Quá trình giải quyết vụ án, anh Tr không đồng ý ly hôn nhưng anh không đưa ra được biệp pháp gì để hàn gắn quan hệ vợ chồng, anh chị đã sống ly thân từ tháng 10/2020 đến nay. Như vậy có thể xác định mâu thuẫn giữa chị H, anh Tr đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H, cho chị H được ly hôn anh Tr là phù hợp với quy định tại điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[2.2]Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Vương Đức D, sinh ngày 17/10/2020.

Xét thấy, chị H có nghề nghiệp và thu nhập ổn định để đảm bảo cuộc sống của bản thân và nuôi con, cháu D dưới 36 tháng tuổi, cần có sự chăm sóc của người mẹ. Đồng thời tại phiên tòa, anh Tr đồng ý để chị H nuôi con và tự nguyện cấp dưỡng nuôi con 5.000.000 đồng/tháng. Xét thỏa thuận của chị H, anh Tr là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định pháp luật nên ghi nhận sự thỏa thuận này.

[2.3]Về tài sản chung, đất nông nghiệp,nợ, công sức: Ghi nhận sự tự nguyện của chị H, anh Tr khôngyêu cầu Tòa giải quyết.

[2.4]Về án phí: Chị H phải chịu án phí theo quy định tại Điều 143, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[2.5]Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên Áp dụng:

QUYẾT ĐỊNH

- Điều 51, 56, 81, 82, 83 và Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình.

- Điều 143, 147, 267, 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Điều 25, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị H. Cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Vương Văn Tr.

2. Về con chung: Ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự, chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Vương Đức D, sinh ngày 17/10/2020 và anh Vương Văn Tr cấp dưỡng nuôi con 5.000.000 đồng/tháng,kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có quyết định có hiệu lực pháp luật khác của Tòa án thay thế.

Anh Vương Văn Tr được quyền thăm và chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

3.Về tài sản chung, đất nông nghiệp,công nợ, công sức đóng góp:Ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị H, anh Vương Văn Tr không yêu cầu giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000đ đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số: 0004213 ngày 01/7/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Sóc Sơn.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị H, anh Vương Văn Tr có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

451
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 59/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:59/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sóc Sơn - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:10/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về