TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 58/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/12/2022 VỀ LY HÔN
Ngày 20 tháng 12 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố T, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số:
99/2022/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2022 về ly hôn và nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51A/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 11 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 38/2022/QĐST – HNGĐ ngày 09 tháng 12 năm 2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Vũ Thị VA, sinh năm 1999
Bị đơn: Anh Đào Vũ Anh C, sinh năm 1996 Đều đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú tại tổ 15, phường P, thành phố B, tỉnh T. Nơi ở: Thôn T, xã B, thành phố T, tỉnh T.
(Tại phiên tòa vắng mặt chị VA có đơn xin xét xử vắng mặt, vắng mặt anh C lần thứ hai không có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 22/8/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Vũ Thị VA trình bày và có yêu cầu như sau:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Đào Vũ Anh C kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Tiền Phong, thành phố T, tỉnh T ngày 10/4/2019. Trong quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do anh C không tu chí làm ăn, chơi bời dẫn đến nợ nần, chị đã nhiều lần trả nợ cho anh C nhưng anh C vẫn tiếp tục không chịu lao động nên vợ chồng xảy ra cãi vã, cuộc sống căng thẳng, không có hạnh phúc. Tháng 6/2022 chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, ly thân với anh C. Trong thời gian ly thân, chị cũng cho anh C cơ hội sửa sai nhưng anh C không thay đổi. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh Đào Vũ Anh C.
Về con chung: Chị và anh Đào Vũ Anh C có một con chung là Đào Vũ TA sinh ngày 06/11/2019, hiện con đang ở với chị. Ly hôn, chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con Đào Vũ Trung Anh, không yêu cầu anh C cấp dưỡng cho con.
Về tài sản chung: Chị VA không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn là anh Đào Vũ Anh C đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa án để giải quyết việc chị VA có đơn xin ly hôn anh. Tòa án cũng đã tiến hành xác minh tại gia đình để ghi lời khai của anh Đào Vũ Anh C nhưng không thực hiện được.
Xác minh tại gia đình anh Đào Vũ Anh C, bà Vũ Thị S (X), là mẹ đẻ anh C cung cấp: Chị VA và anh C có đăng ký hộ khẩu thường trú tại tổ 15, phường Tiền Phong, thành phố T, tỉnh T nhưng thường xuyên sinh sống cùng bà tại thôn Đồng Thanh, xã Tân Bình, thành phố T. Các Thông báo và Giấy báo của Tòa án gửi cho anh Đào Vũ Anh C, bà đều đã chuyển lại cho anh C, anh C đều đã nhận được nhưng anh C không đến làm việc tại Tòa án, bà cũng không rõ lý do. Về hôn nhân: Chị Vũ Thị VA và anh Đào Vũ Anh C kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Tiền Phong, thành phố T, tỉnh T vào ngày 10/4/2019. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống cùng bà nhưng cuộc sống không hạnh phúc, nguyên nhân mâu thuẫn do anh C không chịu lao động, không tu chí làm ăn, chơi bời nợ nần không quan tâm đến vợ con dẫn đến vợ chồng đánh cãi nhau, bà cũng đã khuyên bảo nhiều lần nhưng anh C không thay đổi. Mâu thuẫn vợ chồng anh chị căng thẳng nên từ tháng 8/2022 chị VA đã về nhà bố mẹ đẻ sinh sống ly thân với anh C. Nay chị VA xin ly hôn anh C, bà mong muốn anh chị đoàn tụ, nhưng nếu chị VA vẫn kiên quyết xin ly hôn thì bà cũng đồng ý, đề nghị Tòa án xử theo nguyện vọng của chị VA. Anh chị có một con chung là Đào Vũ TA sinh ngày 06/11/2019, đề nghị Tòa án giao con cho chị VA trực tiếp nuôi dưỡng. Về tài sản: Anh chị không có tài sản chung gì, anh chị hiện đang ở trên nhà đất của bà, ngoài ra có nợ ai không thì bà không biết.
Kết quả xác minh tại nơi ở của chị VA và anh C tại thôn Đồng Thanh, xã Tân Bình, thành phố T thể hiện: Chị VA và anh C là vợ chồng, không đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa phương nhưng thường xuyên sinh sống tại địa phương, việc mâu thuẫn giữa anh chị nguyên nhân cụ thể như thế nào thì địa phương không được báo cáo. Anh chị thường xuyên sinh sống cùng mẹ đẻ anh C là bà Vũ Thị S (X). Anh chị có một con chung là Đào Vũ Trung Anh. Về tài sản chung của anh chị có những gì, hay vay nợ ai thì địa phương không biết.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân theo các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, nguyên đơn đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng về quyền và nghĩa vụ của mình và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn không có mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án mặc dù đã nhận được các thông báo và giấy báo của Tòa án là tự từ bỏ quyền của mình. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 và 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự. Về nội dung, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho chị Vũ Thị VA được ly hôn với anh Đào Vũ Anh C. Về nuôi con chung: áp dụng các Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình, giao con chung Đào Vũ TA sinh ngày 06/11/2019 cho chị VA trực tiếp nuôi dưỡng, anh C không phải cấp dưỡng cho con. Về án phí: áp dụng Điều 24, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Toà án, chị VA phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai vẫn không có mặt tại phiên tòa. Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Ðiều 227, khoản 1, khoản 3 Ðiều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vụ án vắng mặt các đương sự.
[2] Về hôn nhân: Chị VA và anh C kết hôn tự nguyện, khi kết hôn không vi phạm điều kiện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Tiền Phong, thành phố T, tỉnh T ngày 10/4/2019 là hôn nhân hợp pháp. Trong thời gian vợ chồng chung sống có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh C không chịu làm ăn, không có trách nhiệm với gia đình, vợ con. Anh C không có ý kiến trình bày nhưng việc anh chị có mâu thuẫn dẫn đến vợ chồng hiện tại đang sống ly thân là có thật. Mâu thuẫn vợ chồng đã ở mức trầm trọng đời sống chung trên thực tế đã không còn tồn tại nên áp dụng Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho chị Vũ Thị VA ly hôn anh Đào Vũ Anh C.
[3] Về nuôi con chung: Chị VA và anh C có một con chung là Đào Vũ TA sinh ngày 06/11/2019. Xét chị VA có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, con còn nhỏ hiện tại đang ở cùng chị VA, chị VA có việc làm và thu nhập đủ khả năng nuôi con nên giao con cho chị VA trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với điều kiện thực tế của anh chị. Do chị VA không yêu cầu anh C cấp dưỡng nên anh C không ai phải cấp dưỡng cho con. Chị VA và anh C có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng cho con khi cần thiết.
[4] Về chia tài sản chung vợ chồng: Chị VA không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh C không có ý kiến trình bày nên không xem xét giải quyết trong vụ án này. Chị VA và anh C có quyền khởi kiện việc giải quyết chia tài sản chung vợ chồng bằng một vụ án khác.
[5] Về án phí: Chị Vũ Thị VA phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56, Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 2 Ðiều 227; khoản 1, khoản 3 Ðiều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 24; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về hôn nhân: Xử cho chị Vũ Thị VA ly hôn với anh Đào Vũ Anh C.
2. Về nuôi con chung: Giao con Đào Vũ TA sinh ngày 06/11/2019 cho chị VA trực tiếp nuôi dưỡng, anh C không phải cấp dưỡng cho con. Anh C có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được ở với người trực tiếp nuôi dưỡng, anh C có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Chị VA, anh C có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng cho con khi cần thiết.
3. Về chia tài sản: Không đặt ra giải quyết.
4. Về án phí: Chị Vũ Thị VA phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển số tiền 300.000 đồng chị VA đã nộp tạm ứng án phí tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh T, Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000741 ngày 07 tháng 10 năm 2022, sang thi hành án phí.
5. Về quyền kháng cáo: Chị Vũ Thị VA và anh Đào Vũ Anh C có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hay được niêm yết.
Bản án về ly hôn số 58/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 58/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/12/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về