Bản án về ly hôn số 57/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 57/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/09/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 22 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Krông Pắc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 319/2022/TLST - HNGĐ, ngày 22/6/2022 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2022/QĐXXST-HNGĐ, ngày 18/8/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 34/2022/QĐST-HNGĐ ngày 05/9/2022 giữa:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Ngọc Đ, sinh năm 1993.

Trú tại: thị Trấn P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1994.

Trú tại: thị trấn P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc Đ trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Vợ chồng ông bà sau một thời gian quen biết, tìm hiểu và yêu thương nhau tự nguyện thì quyết định tiến đến hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn P vào ngày 21/6/2021. Sau khi về chung sống với nhau theo ông Đ vợ chồng ông bà thường xuyên phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân chính là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng về quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung. Vợ chồng ông bà đã sống ly thân từ tháng 02/2022 cho đến nay, mâu thuẫn giữa vợ chồng ông bà đã quá trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Mặt khác, giữa vợ chồng ông bà không có con chung. Vì vậy, ông Đ làm đơn khởi kiện xin ly hôn với bà G tại Toà án nhân dân huyện Krông Pắc và có nguyện vọng được ly hôn.

Về con chung: Ông Nguyễn Ngọc Đ và bà Nguyễn Thị G không có con chung.

Về tài sản chung và công nợ chung: Ông Nguyễn Ngọc Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn bà Nguyễn Thị G không đến Tòa án làm việc, nên Tòa án không lấy được lời khai của bị đơn.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án và nội dung vụ án:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn chưa chấp hành đúng theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự; căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Cho ông Nguyễn Ngọc Đ được ly hôn với bà Nguyễn Thị G.

Về con chung: Ông Nguyễn Ngọc Đ và bà Nguyễn Thị G không có con chung.

Về tài sản chung và công nợ chung: Ông Nguyễn Ngọc Đ không yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu đã có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của đương sự có mặt tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Căn cứ đơn khởi kiện của nguyên đơn, Tòa án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Ly hôn” được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn khởi kiện xin ly hôn với bị đơn có nơi cư trú tại thị trấn P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền.

Sau khi thụ lý vụ án, Toà án đã tống đạt các văn bản tố tụng, nhưng bị đơn bà Nguyễn Thị G không tham gia tố tụng cũng như không có mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và các phiên hoà giải là từ bỏ quyền và không thực hiện nghĩa vụ của mình. Tại phiên tòa lần thứ nhất bà G vắng mặt, nên Hội đồng xét xử đã hoãn phiên tòa và tống đạt quyết định hoãn phiên tòa cho bà G. Tại phiên tòa hôm nay, bà G vắng mặt, ông Đ có đơn xin xét xử vắng mặt, do vậy Hội đồng xét xử áp dụng Điều 227, Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, để xét xử vụ án là đảm bảo đúng quy định pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án:

Xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa ông Nguyễn Ngọc Đ và bà Nguyễn Thị G là hợp pháp, được pháp luật công nhận thể hiện tại Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 80 cấp ngày 21 tháng 6 năm 2021 của Ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện Krông Pắc. Quá trình tham gia tố tụng ông Nguyễn Ngọc Đ xác định tình cảm vợ chồng không còn và đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn. Bà Nguyễn Thị G không có mặt tại Tòa án để trình bày quan điểm của mình.

Kết quả xác minh, chính quyền địa phương cung cấp: Bà Nguyễn Thị G trú tại thị trấn P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Sau khi ông Đ và bà G kết hôn chung sống được một thời gian ngắn, đến khoảng tháng 02/2022 không rõ vì mâu thuẫn gì ông Đ và bà G không còn sống chung với nhau nữa. Bà G đã thuê nhà ra ở riêng. Giữa ông Đ và bà G không có con chung. Chính quyền địa phương được biết do bà G theo đạo thiên chúa giáo nên bà G không lên Tòa án để làm việc.

Tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình quy định:

“Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.” Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn giữa ông Đ và bà G đã đến mức trầm trọng, vợ chồng ông bà sống ly thân từ tháng 02/2022 cho đến nay mà không có biện pháp hàn gắn hạnh phúc gia đình. Quan hệ hôn nhân giữa ông Đ và bà G không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận đơn khởi kiện và cho ông Đ được ly hôn với bà G.

Về con chung: Ông Nguyễn Ngọc Đ và bà Nguyễn Thị G không có con chung.

Về tài sản chung và công nợ chung: Ông Nguyễn Ngọc Đ không yêu cầu, nên Tòa án không đề cập giải quyết.

[3] Về án phí: Ông Nguyễn Ngọc Đ phải nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[4] Xét thấy, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ ý kiến của Viện kiểm sát.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Cho ông Nguyễn Ngọc Đ được ly hôn với bà Nguyễn Thị G.

Về con chung: Ông Nguyễn Ngọc Đ và bà Nguyễn Thị G không có con chung.

Về tài sản chung và công nợ chung: Ông Nguyễn Ngọc Đ không yêu cầu, nên Tòa án không đề cập giải quyết.

Về án phí: Ông Nguyễn Ngọc Đ phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2021/0016288 ngày 21/6/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

55
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 57/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:57/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Pắc - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về