Bản án về ly hôn số 57/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN D K, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 57/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/09/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 12 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện D K, tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số:

109/2022/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 5 năm 2022 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 02/8/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 46/2022/QĐST-HNGĐ ngày 23/8/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thu H - sinh năm 1983 Địa chỉ: Thôn Phò Th, xã Diên Ph, huyện D K, Khánh Hòa. Có mặt

- Bị đơn: Ông Nguyễn Hữu M - sinh năm 1978 Địa chỉ: Thôn Phò Th, xã Diên Ph, huyện D K, Khánh Hòa. Vắng mặt 

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 29/3/2022, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu H trình bày:

Bà và ông Nguyễn Hữu M tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Diên X vào năm 2008. Trong quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do ông M nhiều lần gây ra nợ nần, bà phải kiếm tiền trả nợ cho ông M. Bà hỏi ông M lý do thì ông M nói ông làm nhân viên bưu điện phát hàng làm mất hàng nên phải bồi thường nhưng bà biết không phải vậy vì không thể mất hàng nhiều lần được, sau đó bà tiếp tục hỏi đến thì ông M tỏ thái độ gắt gỏng, to tiếng với bà. Mỗi lẫn vợ chồng xích mích dẫn đến cãi vã ông M không những chửi mắng, xúc phạm bà mà còn chửi cả gia đình bà. Nhiều lần vì nghĩ cho con nên bà đã nhẫn nhịn chịu đựng nhưng vẫn không hàn gắn được. Hai năm nay mặc dù bà và ông M sống chung nhà nhưng mạnh ai nấy sống, không quan tâm gì đến nhau. Vì nghĩ mâu thuẫn vợ chồng tự giải quyết nên bà không báo chính quyền địa phương hòa giải mâu thuẫn gia đình. Nay bà xác định không còn tình cảm với ông M, mâu thuẫn giữa bà và ông M không thể hàn gắn được nữa, vì vậy yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông M.

Về con chung: Bà và ông M có 01 con chung là Nguyễn Hoài N, sinh ngày 28/3/2009. Bà có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông M cấp dưỡng nuôi con vì bà có công việc ổn định, đảm bảo khả năng nuôi dưỡng con tốt.

Về tài sản chung: Bà và ông M tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Bà và ông M không có nợ chung.

- Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Nguyễn Hữu M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt, không đến Tòa án làm việc, không có lời khai.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện D K, tỉnh Khánh Hòa:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng, đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định pháp luật, bị đơn không có lời khai, không đến Tòa án làm việc.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị Thu H đối với ông Nguyễn Hữu M. Giao con chung Nguyễn Hoài N, sinh ngày 28/3/2009 cho bà H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; ghi nhận việc bà H tự nguyện không yêu cầu ông M cấp dưỡng nuôi con. Bà H xác định vợ chồng bà tự thỏa thuận về tài sản chung và không có nợ chung nên không xét. Bà H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Nguyễn Hữu M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định pháp luật.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Thu H và ông Nguyễn Hữu M tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Diên X vào năm 2008 và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 48 vào ngày 09/12/2008 nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Bà H xác định trong thời gian chung sống giữa bà và ông M thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, ông M nhiều lần gây ra nợ nần, bà phải kiếm tiền trả nợ cho ông M, ông M không có trách nhiệm với gia đình, đã vậy ông M còn hay chửi mắng xúc phạm bà dẫn đến hôn nhân không hạnh phúc và không thể hàn gắn được; hiện tại, bà không còn tình cảm với ông M; không thể tiếp tục duy trì mối quan hệ hôn nhân. Quá trình giải quyết vụ án, ông M đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng không đến Tòa án để làm việc điều này thể hiện ông M có thái độ bỏ mặc, không quan tâm đến quan hệ vợ chồng, không muốn hàn gắn đoàn tụ. Như vậy, có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa bà H và ông M đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của nguyên đơn.

[3]. Về con chung: Bà H và ông M có 01 con chung là Nguyễn Hoài N, sinh ngày 28/3/2009. Bà H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, cháu N có nguyện vọng được ở với bà, xét thấy cần giao con chung cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp quy định pháp luật. Ghi nhận việc bà H tự nguyện không yêu cầu ông M cấp dưỡng nuôi con chung.

[4]. Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị Thu H xác định tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

[5]. Về nợ chung: Bà Nguyễn Thị Thu H xác định vợ chồng không có nợ chung nên không giải quyết. Do bị đơn ông Nguyễn Hữu M chưa có lời khai về vấn đề này nên nếu sau này đương sự có yêu cầu sẽ giải quyết bằng một vụ án khác.

[6]. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Thu H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Bà Nguyễn Thị Thu H được ly hôn với ông Nguyễn Hữu M.

2. Về con chung:

Giao con chung Nguyễn Hoài N, sinh ngày 28/3/2009 cho bà Nguyễn Thị Thu H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Ghi nhận việc bà Nguyễn Thị Thu H tự nguyện không yêu cầu ông Nguyễn Hữu M cấp dưỡng nuôi con. Ông M có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Quá trình nuôi dưỡng con chung, bà Nguyễn Thị Thu H, ông Nguyễn Hữu M có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn; thay đổi cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Thu H phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí mà bà H đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0007814 ngày 13/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện D K - tỉnh Khánh Hòa. Bà H đã nộp đủ tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

4. Trường hợp Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 57/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:57/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diên Khánh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về