Bản án về ly hôn số 57/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUYÊN MỘC, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

 BẢN ÁN 57/2021/HNGĐ-ST NGÀY 01/07/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 01 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 667/2020/TLST- HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2020 về việc “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 48/2021/QĐST ngày 11/6/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Minh D, sinh năm 1961 (có mặt) Địa chỉ: Tổ 3, ấp 3, xã HH, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1962 (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 5, ấp 3, xã HH, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 12/12/2020 và các biên bản làm việc tiếp theo tại Tòa án nguyên đơn ông Nguyễn Minh D trình bày như sau:

Ông Nguyễn Minh D và bà Nguyễn Thị L sau một thời gian quen biết và tìm hiểu nhau đã tiến tới hôn nhân và đăng ký kết hôn tại UBND xã HH, huyện Xuyên Mộc và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 50 vào ngày 23/8/2019, việc đăng ký kết hôn là tự nguyện, không ai ép buộc. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại xã Xuyên Mộc, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, khi đến với nhau hai người đã từng có gia đình riêng. Cuộc sống hôn nhân hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, thời gian đầu thì ít nhưng càng ngày càng mâu thuẫn trầm trọng và kéo dài cho đến ngày hôm nay.

Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, giữa hai vợ chồng không có tiếng nói chung nên thường xuyên cãi vã nhau, mâu thuẫn chủ yếu là về kinh tế lẫn tình cảm, giữa hai người không có tiếng nói chung, mặc dù hai bên gia đình đã khuyên nhủ động viên để hai người hằn gắn nhưng không có kết quả, vì vậy từ đầu năm 2020 đến nay ông D và bà L đã ly thân nhau không còn quan hệ gì về kinh tế lẫn tình cảm, ông D đi nuôi tôm ở xã Lộc An, huyện Đất Đỏ còn bà L vẫn sinh sống tại xã HH, huyện Xuyên Mộc.

Từ khi ly thân nhau đến nay ông D và bà L cũng không gặp nhau để bàn chuyện hàn gắn tình cảm vợ chồng, nay ông D nhận thấy mâu thuẫn không thể hàn gắn được tình cảm vợ chồng không còn nên ông D yêu cầu ly hôn với bà Nguyễn Thị L để có điều kiện xây dựng cuộc sống mới.

Về con chung: Không có con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đối với bà Nguyễn Thị L, Tòa án đã tiến hành các thủ tục Thông báo thụ lý vụ án, các thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, cũng như triệu tập tham gia phiên tòa hai lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

Phát biểu quan điểm của kiểm sát viên: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, là đúng trình tự, thủ tục tố tụng được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của đương sự: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của đương sự, bị đơn vắng mặt hai phiên tòa là chưa chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của đương sự.

Về nội dung: Qua xem xét nội dung vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng, thẩm quyền và quan hệ pháp luật tranh chấp:

Bà Nguyễn Thị L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng bà L vắng mặt tại phiên tòa hai lần không có lý do, vì vậy xét xử vắng mặt bà L là phù hợp với quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

Qua xem xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các bên là “Ly hôn” giữa ông Nguyễn Minh D với bà Nguyễn Thị L nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Xuyên Mộc quy định tại Điều 28 và Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân: Ông Nguyễn Minh D với bà Nguyễn Thị L sau một thời gian tìm hiểu đã tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã HH, huyện Xuyên Mộc và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 50 vào ngày 23/8/2019, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Sau khi vợ chồng sống chung hạnh phúc với nhau được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn.

Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn ông D cho rằng cuộc sống chung vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình hai người không hợp nhau, nên hay xảy ra xung đột và cải vã lẫn nhau, mâu thuẫn cả về tình cảm lẫn kinh tế. Do bà Nguyễn Thị L vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào những chứng cứ do ông D cung cấp và những chứng cứ Tòa án thu thập làm căn cứ giải quyết vụ án.

Xét yêu cầu của ông D cho thấy sau khi mâu thuẫn xảy ra, lẽ ra bà L và ông D phải cùng tìm nguyên nhân để hàn gắn vợ chồng và xây dựng gia đình nhưng từ đầu năm 2020 đến nay mạnh ai nấy sống, vợ chồng không quan tâm chăm sóc lẫn nhau, sau khi ông D đi nuôi tôm ở Lộc An, Đất Đỏ còn bà L vẫn ở xã HH nhưng các bên cũng không hề gặp nhau để hàn gắn tình cảm vợ chồng và khi ông D gửi đơn đến Tòa án đã tiến hành nhiều phiên hòa giải để đoàn tụ vợ chồng nhưng không có kết quả vì lý do ông D kiên quyết ly hôn để xây dựng cuộc sống mới, còn bà L vắng mặt không có lý do và cũng không có động thái gì hàn gắn tình cảm hôn nhân đang rạn nứt, Chứng tỏ cả hai bên không còn tha thiết gì đối với quan hệ hôn nhân của chính mình.

Từ những nhận định nêu trên Hội đồng xét xử nhận thấy, tình cảm vợ chồng của bà L và ông D thực sự không còn tình trạng hôn nhân nhân trầm trọng đời sống chung không thể kéo dài vì trong giai đoạn này là sự quyết liệt ly hôn của ông D và sự phó mặc của bà L cho chính quan hệ hôn nhân đang rạn nứt của mình thì cơ hội đoàn tụ vợ chồng là không có. Vì vậy cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông D.

[3]. Về con chung: Không có con chung

[4]. Về tài sản chung và nợ chung: ông D không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

Về án phí: Áp dụng Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 ông D phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân & gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các điều 28, 35, 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56 , 57 Luật Hôn nhân & Gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Tuyên xử:

[1]. Về hôn nhân: Cho Ông Nguyễn Minh D được ly hôn với bà Nguyễn Thị L.

[2]. Về con chung: Không có con chung

[3]. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

[4]. Về án phí: Ông Nguyễn Minh D phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí Hôn nhân & Gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí Hôn nhân & Gia đình ông D đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0008998 ngày 15/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuyên Mộc. Như vậy ông D đã nộp đủ án phí Hôn nhân & Gia đình sơ thẩm.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn 15 ngày được tính từ ngày nhận hoặc được niêm yết bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 57/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:57/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về