TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGÃ NĂM, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 54/2023/HNGĐ-ST NGÀY 13/07/2023 VỀ LY HÔN
Trong ngày 13 tháng 7 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã N, tỉnh S. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 59/2023/TLST – HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2023 về việc Ly hôn. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 115/2023/QĐXXST – HNGĐ ngày 07 tháng 6 năm 2023 và quyết định hoãn phiên tòa số 120/2023/QĐST-DS ngày 26 tháng 6 năm 2023 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Đặng G, sinh năm 1976 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp V, xã Q, thị xã N, tỉnh S.
Bị đơn: Ông Phạm T, sinh năm 1977 (Vắng mặt) Địa chỉ: Khóm E, Phường T, thị xã N, tỉnh S.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1/ Theo đơn khởi kiện lập ngày 01/11/2022, quá trình tố tụng nguyên đơn bà Đặng G trình bày: Bà và ông Phạm T có đăng ký kết hôn vào ngày 21/02/2013 tại Ủy ban nhân dân xã Q, thị xã N, tỉnh S. Thời gian đầu khi mới sống chung với nhau thì vợ chồng bà sống rất vui vẻ, hạnh phúc. Thời gian về sau vợ chồng bà phát sinh nhiều mâu thuẫn cãi vã, do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng bà đã nhiều lần hàn gắn tình cảm nhưng vẫn không thể hàn gắn, từ năm 2017 bà và ông T sống ly thân với nhau. Bà giữ nguyên yêu cầu ly hôn với ông Phạm T. Về con chung: Bà và ông T có một con chung tên Phạm T, sinh ngày 14/12/2001 hiện nay con đã trưởng thành, bà không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết. Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết. Về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng: không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.
2/ Bị đơn ông Phạm T đã được Tòa án thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn không trình bày ý kiến gửi đến Toà án, cũng không đến Tòa án tham gia phiên tòa.
3/ Tại phiên tòa, vị Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, xác định quan hệ pháp luật, xác định tư cách đương sự, thu thập chứng cứ và đưa vụ án ra xét xử đúng trình tự thủ tục của Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử đúng thành phần, thực hiện đầy đủ các thủ tục, trình tự khi xét xử vụ án. Nguyên đơn vắng mặt có yêu cầu xin xét xử vắng mặt đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Còn bị đơn vắng mặt không rõ lý do là chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Kiểm sát viên phát biểu về tính có căn cứ và yêu cầu của nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 55, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận cho bà G được ly hôn với ông T.
Về con chung: Bà G trình bày có một con chung nhưng con của bà đã trưởng thành, bà không yêu cầu nên đề nghị không đặt ra xem xét.
Về nợ chung, tài sản chung và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn, các đương sự không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định: Về tố tụng: Nguyên đơn bà Đặng G vắng mặt và có yêu cầu xét xử vắng mặt; bị đơn ông Phạm T vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không rõ lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự. Về quan hệ hôn nhân: bà Đặng G và bị đơn ông Phạm T đã sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 2001 và đến ngày 21/02/2013 ông T và bà G là những người có đầy đủ điều kiện kết hôn, ông bà tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, thị xã N, tỉnh S và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn. Do vậy quan hệ hôn nhân giữa ông T và bà G là hợp pháp. Trong cuộc sống hôn nhân giữa ông T và bà G, theo bà G cho rằng đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, vợ chồng bà bất đồng quan điểm trong cuộc sống, cãi vã và đã ly thân với nhau từ năm 2017 cho đến nay và bà vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn, còn ông T đã được Tòa án thông báo ý kiến về việc bà G xin ly hôn nhưng vẫn không có ý kiến gửi đến Tòa án. Xét thấy, nền tảng của mối quan hệ hôn nhân vững chắc là việc vợ chồng yêu thương nhau, quan tâm, chăm sóc nhau, tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau. Trong cuộc sống vợ chồng của ông T và bà G đã không còn sự quan tâm dành cho nhau, tình trạng mâu thuẫn giữa ông T và bà G là trầm trọng không thể khắc phục. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà G, cho bà G được ly hôn với ông T. Về con chung: Bà G trình bày giữa bà và ông T có một con chung nhưng con đã trưởng thành, bà không có yêu cầu gì, còn ông Toàn cũng không có ý kiến hay yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Về tài sản chung, nợ chung và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng sau khi ly hôn: Các đương sự không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bà Đặng G phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0006429 ngày 27/02/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã N. Như vậy, bà G đã thực hiện xong án phí. Đề nghị của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân thị xã N về hướng giải quyết vụ án nêu trong phần nội dung vụ án là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 266; Điều 271, Điều 273, Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
* Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đặng G.
1/ Về quan hệ hôn nhân: Bà Đặng G được ly hôn với ông Phạm T.
2/ Về con chung: Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
3/ Về tài sản chung, nợ chung và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn: Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
4/ Về án phí sơ thẩm: Bà Đặng G phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0006429 ngày 27/02/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã N. Như vậy, bà G đã thực hiện xong án phí.
5/ Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đương sự cư trú.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự.
Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn