Bản án về ly hôn số 46/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 46/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 30 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Long An xét xử công khai vụ án thụ lý số 24/2021/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 01 năm 2021 về “Ly hôntheo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trịnh Thị Hồng Q, sinh năm 1977;

Địa chỉ: Số nhà A ấp B, xã T, huyện T, tỉnh Long An.

- Bị đơn: Ông Trần Nguyên K, sinh năm 1978;

Địa chỉ: Số nhà S đường H, Phường M, thành phố T, tỉnh Long An.

(Bà Hồng Q, ông Nguyên K vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 05/01/2021 và các lời trình bày của bà Trịnh Thị Hồng Q có nội dung:

Bà quen biết và kết hôn với ông Trần Nguyên K từ năm 2003 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường M, thị xã T (nay là thành phố T), tỉnh Long An. Bà và ông K chung sống hạnh phúc một thời gian đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng mâu thuẫn về tình cảm, quan điểm, lối sống nên cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Bà đã về nhà mẹ ruột ở từ năm 2018 cho đến nay. Nay thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu được ly hôn với ông K.

Về con chung: bà và ông K có 02 con chung tên Trần Nguyên Khang H sinh ngày 24/10/2003 và Trần Nguyên Kh sinh năm 20/4/2016. Khi ly hôn, bà yêu cầu được nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngày 01/4/2021, bà có văn bản đề nghị Tòa án xem xét cho bà được vắng mặt trong ngày xét xử sơ thẩm.

Bị đơn, ông Trần Nguyên K vắng mặt:

Ông K đã được Tòa án thực hiện việc niêm yết, tống đạt giấy triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông K không đến tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, phiên hòa giải do Tòa án tổ chức, không có văn bản thể hiện ý kiến của ông đối với yêu cầu ly hôn của bà Hồng Q. Phiên tòa hôm nay, ông K cũng vắng mặt dù đã được tống đạt giấy báo hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu:

- Về tố tụng: Thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Những người tham gia tố tụng chấp hành đúng theo quy định của pháp luật.

- Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ các chứng cứ có trong hồ sơ có đủ cơ sở nhận định quan hệ hôn nhân giữa ông K và bà Hồng Q đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Hồng Q.

Về con chung: bà Hồng Q và ông K có 02 con chung, bà Hồng Q yêu cầu được nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu ông K phải cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy ông K cũng không có ý kiến gì đối với yêu cầu này nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng: Do bà Hồng Q không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền: Bà Trịnh Thị Hồng Q khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Trần Nguyên K có địa chỉ cư trú tại thành phố Tân An nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An.

[2] Về việc xét xử vắng mặt Nguyên đơn là bà Trịnh Thị Hồng Q, Bị đơn là ông Trần Nguyên K: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện việc niêm yết, tống đạt Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải; Biên bản phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa và các giấy triệu tập ông K đến các phiên tòa sơ thẩm nhưng ông K không chấp hành. Riêng bà Hồng Q đã có đơn xin xét xử vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự là đúng theo quy định tại Điều 227, Khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Trịnh Thị Hồng Q và ông Trần Nguyên K tự tìm hiểu và kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường M, thị xã T (nay là thành phố T), tỉnh Long An năm 2003 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Theo lời trình bày của bà Hồng Q thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn về tình cảm, quan điểm, lối sống nên thường hay cãi vã, cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc. Ông K được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần, biết được việc bà Hồng Q yêu cầu ly hôn với ông nhưng ông không có văn bản thể hiện ý kiến của ông là muốn được đoàn tụ hoặc đưa ra những biện pháp cụ thể để hàn gắn tình cảm vợ chồng với bà Hồng Q. Như vậy, chứng tỏ rằng trong cuộc sống vợ chồng giữa bà Hồng Q và ông K đã có những mâu thuẫn không giải quyết được. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa bà Hồng Q và ông K đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể tiếp tục kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn của bà Hồng Q là có căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

[4] Về con chung: bà Hồng Q và ông K có hai (02) con chung tên Trần Nguyên Khang H sinh ngày 24/10/2003 và Trần Nguyên Kh sinh năm 20/4/2016. Bà Hồng Q đề nghị được nuôi dưỡng 02 con chung. Ông K không có ý kiến gì đối với yêu cầu của bà Hồng Q. Hội đồng xét xử nhận thấy, bà Hồng Q đã mang hai con chung về nhà mẹ ruột ở từ năm 2018 cho đến nay, cuộc sống của các con chung hiện ổn định và con chung cũng có nguyện vọng được sống với mẹ nên việc giao bà Hồng Q tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung là phù hợp với quy định của pháp luật nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống của các con chung.

[5] Bà Hồng Q không yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con chung, ông K cũng không có ý kiến gì về việc cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử ghi nhận ý kiến của bà Hồng Q, không buộc ông K phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[6] Ông K được quyền tới lui thăm nom chăm sóc con chung, không ai được quyền cản trở. Khi cần thiết vì quyền lợi con chung ông K và bà Hồng Q có quyền xin thay đổi việc nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

[7] Về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng: bà Hồng Q không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Hội đồng xét xử xét thấy, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tân An tham gia phiên tòa phát biểu về việc tuân theo pháp luật và quan điểm giải quyết vụ án trên là có căn cứ theo quy định của pháp luật.

[9] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Hồng Q phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn là 300.000đ theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Chuyển 300.000đ tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm bà Hồng Q đã nộp sang thành tiền án phí dân sự sơ thẩm, bà Hồng Q đã nộp đủ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Áp dụng Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Trịnh Thị Hồng Q, cho bà Trịnh Thị Hồng Q ly hôn với ông Trần Nguyên K.

2. Về con chung: Giao 02 con chung tên Trần Nguyên Khang H sinh ngày 24/10/2003 và Trần Nguyên Kh sinh năm 20/4/2016 cho bà Trịnh Thị Hồng Q nuôi dưỡng. Ông Trần Nguyên K không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông Trần Nguyên K có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở. Khi cần thiết vì quyền lợi con chung, ông Trần Nguyên K, bà Trịnh Thị Hồng Q có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc yêu cầu cấp dưỡng, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con; cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định pháp luật.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: bà Trịnh Thị Hồng Q phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm. Chuyển số tiền tạm ứng án phí bà Hồng Q đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu số 0005122 ngày 19/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tân An thành án phí dân sự sơ thẩm, bà Hồng Q đã nộp đủ.

4. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 46/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:46/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tân An - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về