TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠNH PHÚ - TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 45/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/09/2022 VỀ LY HÔN
Ngày 16 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 48/2022/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2022 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36A/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị N, sinh năm 1985; Địa chỉ: ấp QĐB, xã QĐ, huyện P, tỉnh Bến Tre.
Chị N có yêu cầu xét xử vắng mặt.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1982; Địa chỉ: ấp TA, xã TP, huyện P, tỉnh Bến Tre. Vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình tố tụng nguyên đơn chị Huỳnh Thị N trình bày:
Vào năm 2003 chị với anh L tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T, huyện Thạnh Phú và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 17/9/2003. Việc kết hôn và đăng ký kết hôn là do các bên tự nguyện. Chị và anh L có 02 con chung tên Nguyễn Thị ND, sinh ngày 15/12/2003 và Nguyễn Duy K, sinh ngày 18/4/2007 hiện đang sống chung với chị. Chị và anh L không có tạo lập được tài sản chung. Về nợ chung: không có.
Nguyên nhân chị yêu cầu ly hôn với anh L là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên chị với anh L không còn sống chung khoảng hơn 12 năm. Khi chị với anh L không còn sống chung cha mẹ hai bên có khuyên chị và anh L hàn gắn nhiều lần nhưng chị và anh L không có thiện chí hàn gắn với nhau.
Nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nên chị có các yêu cầu như sau:
- Về hôn nhân: Chị yêu cầu ly hôn với anh L. Sau khi ly hôn chị không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng cho chị.
- Về con chung: Chị nhận thấy mình đủ điều kiện để nuôi con chung nên chị yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung tên Nguyễn Duy K, sinh ngày 18/4/2007.
Chị không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng. Đối với con chung Nguyễn Thị N D, sinh ngày 15/12/2003 đã trưởng thành và nghề nghiệp ổn định nên chị không yêu cầu giải quyết.
- Về tài sản chung: không có nên không yêu cầu giải quyết.
- Về nợ chung: không có nên không yêu cầu giải quyết.
Bị đơn anh Nguyễn Văn L đã được Tòa án tống đạt hợp lệ nhiều lần các thông báo nhưng anh L vẫn vắng mặt không có lý do, không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và cũng không cung cấp chứng cứ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:
Về trình thự thủ tục: Thẩm phán và Hội đồng xét xử sơ thẩm đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý cho đến khi đưa vụ án ra xét xử. Nguyên đơn thực hiện đúng qui định tại các Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự; Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70,72 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Căn cứ lời trình bày của chị N, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 53, 56; Điều 81 và Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị N.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
1 Về quan hệ pháp luật: Đây là vụ án “Tranh chấp ly hôn” theo khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
[2] Về thẩm quyền: Anh Nguyễn Văn L có đăng ký hộ khẩu thường trú tại 19/1 ấp Thạnh A, xã T, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú theo quy định tại khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[3 Về thủ tục tố tụng: Chị Huỳnh Thị N có yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị N. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt cho anh Nguyễn Văn L các văn bản tố tụng theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại Điều 177 Bộ luật tố tụng dân sự nhưng anh L đều không có mặt theo thông báo và giấy triệu tập của Tòa án. Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh L.
[4] Về hôn nhân: Vào năm 2003, chị N và anh L kết hôn với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 15/12/2003. Do đó, việc kết hôn và đăng ký kết hôn của chị N và anh L là phù hợp với qui định của pháp luật nên được xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Theo chị N, nguyên nhân chị yêu cầu ly hôn với anh L là do chị với anh L bất đồng quan điểm, nhiều lần phát sinh mâu thuẫn nên không còn sống chung khoảng hơn 12 năm nay, cả hai không có thiện chí hàn gắn tình cảm với nhau. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ nhiều lần các thông báo, quyết định của Tòa án nhằm tạo điều kiện để chị N và anh L hòa giải với nhau nhưng anh L vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, có căn cứ xác định tình trạng hôn nhân giữa anh L và chị N đã lâm vào trình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của chị N đối với anh L là có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Do chị N không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng sau khi ly hôn nên không xem xét giải quyết.
[4] Về con chung: Chị N và anh L có 02 con chung, Nguyễn Duy K, sinh ngày 18/4/2007 và Nguyễn Thị ND, sinh ngày 15/12/2003. Thấy rằng, từ khi chị N và anh L không còn sống chung, chị N là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung, tại biên bản lấy ý kiến con chưa thành niên ngày 06/4/2022 cháu Khang trình bày nguyện vọng là muốn sống chung với chị N nên cần giao Nguyễn Duy K, sinh ngày 18/4/2007 cho chị N được trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Do chị N không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét giải quyết.
Đối với con chung Nguyễn Thị ND, sinh ngày 15/12/2003 đã trưởng thành, có nghề nghiệp ổn định nên không xem xét giải quyết.
Anh Nguyễn Văn L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, khi cần thiết anh Nguyễn Văn L có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn và cấp dưỡng nuôi con, chị Huỳnh Thị N có quyền yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.
[4] Về tài sản chung: Do chị N trình bày không có nên không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.
[5] Về nợ chung: Do chị N trình bày không có nên không xem xét giải quyết.
[6] Về án phí hôn nhân và gia đình: Chị Nguyễn Thị N phải nộp theo quy định của pháp luật.
[7] Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 227, 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 53, 56, 81, 82 và Điều 115 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Huỳnh Thị N. Chị Huỳnh Thị N được ly hôn với anh Nguyễn Văn L. Ghi nhận chị N không yêu cầu anh L cấp dưỡng khi ly hôn.
2. Về con chung: Chị Huỳnh Thị N được trực tiếp nuôi dưỡng Nguyễn Duy K, sinh ngày 18/4/2007. Do chị N không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét giải quyết Đối với con chung Nguyễn Thị ND, sinh ngày 15/12/2003 đã trưởng thành, có nghề nghiệp ổn định nên không xem xét giải quyết.
Anh Nguyễn Văn L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, khi cần thiết anh Nguyễn Văn L có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn và cấp dưỡng nuôi con, chị Huỳnh Thị N có quyền yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.
3. Về tài sản chung: Do chị N trình bày không có nên không không xem xét giải quyết.
4.Về nợ chung: Do chị N trình bày không có nên không xem xét giải quyết.
5. Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Huỳnh Thị N phải nộp 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0004437 ngày 24 tháng 02 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thạnh Phú và đã nộp xong.
Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án về ly hôn số 45/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 45/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Phú - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 16/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về