Bản án về ly hôn số 41/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VN - TỈNH KH

BẢN ÁN 41/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/09/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 08 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện VN, tỉnh KH tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 113/2022/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2022, về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2022/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 8 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 34/2022/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Võ Minh T - sinh năm: 1994; trú tại: 47 GG, xã VN, thành phố NT, tỉnh KH. Có mặt.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Thu H - sinh năm: 1994; trú tại: Thôn XĐ, xã VH, huyện VN, tỉnh KH. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện gửi đến Tòa án ngày 02 tháng 3 năm 2022, Bản tự khai, Biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 05 tháng 7 năm 2022 và tại phiên tòa, nguyên đơn anh Võ Minh T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Võ Minh T và chị Nguyễn Thị Thu H tự nguyện kết hôn và đăng ký kết hôn ngày 29 tháng 7 năm 2019 tại Ủy ban nhân dân xã VN, thành phố NT, tỉnh KH theo Giấy chứng nhận kết hôn số 71. Sau khi kết hôn, vợ cH chung sống hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do giữa vợ chồng có nhiều bất đồng về quan điểm sống, tính tình vợ chồng không hợp và không hiểu nhau nên thường hay cãi vã, xúc phạm nhau. Mâu thuẫn vợ chồng kéo dài và ngày càng gay gắt nên từ đầu năm 2022 đến nay chị H đã về nhà cha mẹ ở thôn XĐ, xã VH, huyện VN sống. Từ đó đến nay, vợ chồng đã không còn sống chung, mạnh ai nấy sống, không ai còn quan tâm đến ai. Anh T xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn được nữa. Anh T yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Nguyễn Thị Thu H.

- Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Vợ cH có con chung duy nhất là Võ Minh Gia K - sinh ngày 04/10/2019. Hiện nay con chung đang sống với chị H. Anh T yêu cầu giải quyết giao cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Anh T cấp dưỡng nuôi con chung 3.000.000đồng/tháng, cấp dưỡng vào ngày 08 hàng tháng, thời gian cấp dưỡng bắt đầu từ ngày 08/10/2022 cho đến khi con đủ 18 tuổi.

- Về tài sản chung: Không có.

- Về nợ chung: Vợ chồng không nợ của ai, không ai nợ của vợ chồng.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ đối với bị đơn là chị Nguyễn Thị Thu H để trình bày ý kiến về việc anh T khởi kiện, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa nhưng chị H đều không có mặt nên Toà án không lấy được lời khai của chị H, không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện VN phát biểu ý kiến như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án đến nay, Thẩm phán đã thực hiện đúng nội dung quy định tại Điều 48 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định về phiên tòa sơ thẩm; nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71 và Điều 234 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đề nghị Tòa án chấp nhận các yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Võ Minh T yêu cầu ly hôn với chị Nguyễn Thị Thu H - hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn XĐ, xã VH, huyện VN, tỉnh KH nên căn cứ theo khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì đây là vụ án hôn nhân và gia đình tranh chấp về ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện VN, tỉnh KH. Bị đơn chị Nguyễn Thị Thu H đã được Tòa án nhân dân huyện VN triệu tập hợp lệ đến phiên tòa xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị Nguyễn Thị Thu H.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Mặc dù bị đơn chị Nguyễn Thị Thu H vắng mặt tại phiên tòa, nhưng căn cứ vào lời khai của anh T và các chứng cứ đã thu thập được thì việc kết hôn giữa anh Võ Minh T và chị Nguyễn Thị Thu H là tự nguyện, đăng ký kết hôn số 71 ngày 29 tháng 7 năm 2019 tại Ủy ban nhân dân xã VN, thành phố NT, tỉnh KH, nên quan hệ hôn nhân giữa anh T và chị H là hợp pháp.

Căn cứ lời khai của anh T thì vợ cH anh T chị H hiện nay không còn sống chung với nhau nữa, vợ chồng không ai quan tâm, chăm sóc cho ai.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập chị H đến Tòa để giải quyết ly hôn giữa hai người nhưng chị H đều không có mặt, chứng tỏ chị H không còn quan tâm gì về quan hệ hôn nhân này nữa. Về nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn giữa anh T và chị H theo anh T trình bày là do tính tình vợ chồng không hợp, không hiểu nhau nên hay cãi vã xúc phạm nhau. Từ đầu năm 2022 cho đến nay, vợ chồng đã mạnh ai nấy sống, không ai quan tâm gì đến ai. Nên có cơ sở để xác định tình trạng hôn nhân giữa hai người đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, việc anh T yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với chị H là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, nên chấp nhận yêu cầu này của anh T.

[3] Về con chung: Anh T, chị H có con chung duy nhất là Võ Minh Gia K - sinh ngày 04/10/2019. Anh T yêu cầu giao con chung cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc và anh T cấp dưỡng nuôi con chung 3.000.000đồng/tháng. Xét thấy: Anh T và chị H ai cũng có quyền nuôi dưỡng, chăm sóc con chung. Tuy nhiên, theo anh T khai thì con chung hiện đang do chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và tại biên bản xác minh ngày 06/6/2022, Công an xã VH xác nhận cháu K đang sống với chị H tại thôn XĐ, xã VH. Vì vậy việc anh T yêu cầu giao cho chị H được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình, nên chấp nhận yêu cầu này của anh T. Anh T cấp dưỡng nuôi con chung 3.000.000đồng/tháng, cấp dưỡng vào ngày 08 hàng tháng, thời gian bắt đầu cấp dưỡng từ ngày 08/10/2022 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

[4] Về tài sản chung: Anh Võ Minh T xác nhận vợ chồng không có tài sản chung.

[5] Về nợ chung: Anh Võ Minh T xác nhận vợ chồng không nợ chung của ai, không ai nợ chung của vợ cH.

[6] Bị đơn chị Nguyễn Thị Thu H mặc dù đã được Tòa án thông báo, triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều không đến Tòa án để trình bày ý kiến về việc khởi kiện của nguyên đơn và cũng không hòa giải được vụ án. Vì vậy, không có cơ sở để giải quyết yêu cầu của chị H.

[7] Về án phí:

- Anh Võ Minh T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật với số tiền là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

- Án phí về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Võ Minh T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật với số tiền là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, 1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Cho anh Võ Minh T được ly hôn với chị Nguyễn Thị Thu H.

2. Về con chung: Giao con chung Võ Minh Gia K - sinh ngày 04 tháng 10 năm 2019 cho chị Nguyễn Thị Thu H được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi con chung đủ 18 (mười tám) tuổi.

Anh Võ Minh T cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 3.000.000đ (ba triệu đồng), cấp dưỡng vào ngày 08 hàng tháng, thời gian bắt đầu cấp dưỡng tính từ ngày 08 tháng 10 năm 2022 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Quy định: Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, nếu người phải thi hành án không thi hành khoản tiền trên thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi đối với số tiền chậm thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

Trong quá trình nuôi dưỡng con chung, nếu xét thấy cần thiết anh T, chị H có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con chung cũng như việc cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về tài sản chung: Không có.

4. Về án phí:

- Anh Võ Minh T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0001364 ngày 23 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố NT, tỉnh KH; anh T đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

- Án phí về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Võ Minh T phải chịu án phí là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

5. Quyền kháng cáo của nguyên đơn là 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; quyền kháng cáo của bị đơn là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh KH xét xử phúc thẩm.

* Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

80
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 41/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:41/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vạn Ninh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về