Bản án về ly hôn số 37/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAM LÂM - TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 37/2022/HNGĐ-ST NGÀY 07/09/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 07 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 51/2022/TLST- HNGĐ ngày 21/3/2022 về việc: “ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2022/QĐST-HNGĐ ngày 01/8/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 23/2022/QĐST-HNGĐ ngày 22/8/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Văn Thị Bích T - Sinh năm: 1993 Địa chỉ: thôn V, xã S, huyện C, tỉnh Khánh Hòa. (Có xin xét xử vắng mặt)

2. Bị đơn: Ông Đặng Trọng N - Sinh năm: 1990 Địa chỉ: thôn V, xã S, huyện C, tỉnh Khánh Hòa. (Vắng mặt tại phiên toà)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 28/02/2022, bản tự khai ngày 06/4/2024, đơn xin không hòa giải và tiến hành phiên họp giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, xét xử vắng mặt đề ngày 18/7/2022, nguyên đơn bà Văn Thị Bích T trình bày:

Về yêu cầu ly hôn: Bà Văn Thị Bích T và ông Đặng Trọng N tự nguyện kết hôn với nhau năm 2016 và được UBND xã S cấp giấy chứng nhận kết hôn số 16/2016 ngày 21/3/2016.

Quá trình chung sống, vợ chồng bà T, ông N đã phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông N thường xuyên chơi bài bạc rồi gây nợ nần, bà T nhiều lần phải trả nợ thay cho ông N. Bà T đã khuyên giải nhưng ông N vẫn không thay đổi làm cho tình trạng mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn. Gần đây ông N vay mượn tiền của nhiều người rồi bỏ nhà đi nơi khác sinh sống, các chủ nợ kéo đến nhà gây áp lực với bà T. Nay bà T nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã quá trầm trọng, cuộc sống hôn nhân không mang lại hạnh phúc nên bà T yêu cầu Toà án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Đặng Trọng N.

Về yêu cầu nuôi con và cấp dưỡng nuôi con: Bà T và ông N có 02 con chung là cháu Đặng Thiên P sinh ngày 25/5/2016 và cháu Đặng Thiên L sinh ngày 18/5/2019. Hiện nay, các cháu P, L đang ở với bà T. Bà T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục cả hai cháu P, L và không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con.

Về yêu cầu chia tài sản chung khi ly hôn: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát có ý kiến như sau:

- Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn bà Văn Thị Bích T đã chấp hành đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn ông Đặng Trọng N không chấp hành các quy định của pháp luật về tố tụng, đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm.

- Về nội dung: Yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc ly hôn cũng như về việc nuôi con, cấp dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về tố tụng:

Ngày 01/3/2022, bà Văn Thị Bích T có đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Đặng Trọng N, đây là quan hệ tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Vì vậy, Tòa án nhân dân huyện Cam Lâm đã thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn bà Văn Thị Bích T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn ông Đặng Trọng N đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.

[2] Về yêu cầu ly hôn: Bà Văn Thị Bích T và ông Đặng Trọng N tự nguyện kết hôn với nhau năm 2016 và được UBND xã S cấp giấy chứng nhận kết hôn số 16/2016 ngày 21/3/2016, đây là hôn nhân hợp pháp. Trong thời gian chung sống giữa bà T và ông N đã xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông N thường xuyên chơi bài bạc, nhiều lần gây nợ nần rồi bỏ nhà đi nơi khác sinh sống. Bà T và ông N đã sống ly thân nhau, không ai quan tâm đến ai. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, Tòa án đã triệu tập nhiều lần để hòa giải nhưng ông N vẫn cố tình vắng mặt, cho thấy thái độ bất cần, không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng của ông N. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa bà T và ông N đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu ly hôn của bà Văn Thị Bích T là có căn cứ chấp nhận.

[3] Về yêu cầu nuôi con và cấp dưỡng nuôi con: Bà T và ông N có 02 con chung là cháu Đặng Thiên P sinh ngày 25/5/2016 và cháu Đặng Thiên L sinh ngày 18/5/2019. Hiện nay, các cháu P, L đang ở với bà T và bà T có yêu cầu được tiếp tục nuôi cả hai con. Hội đồng xét xử xét thấy để đảm bảo cho việc nuôi dưỡng, chăm sóc và phát triển thể chất của các cháu P, L nên chấp nhận yêu cầu của bà T, giao các cháu P, L cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục.

Bà T không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con nên không xét.

[4] Về yêu cầu chia tài sản chung khi ly hôn: Bà T không yêu cầu giải quyết nên không xét.

[5] Về án phí: Bà T phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, bà Văn Thị Bích T được ly hôn với ông Đặng Trọng N.

2. Về nuôi con và cấp dưỡng nuôi con:

- Giao cháu Đặng Thiên P sinh ngày 25/5/2016 và cháu Đặng Thiên L sinh ngày 18/5/2019 cho bà Văn Thị Bích T được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Văn Thị Bích T không yêu cầu nên không xét.

Vì lợi ích của con, khi cần thiết các bên có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con. Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con; không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.

3. Về yêu cầu chia tài sản chung khi ly hôn: Bà Văn Thị Bích T không yêu cầu giải quyết nên không xét.

4. Về án phí: Bà Văn Thị Bích T phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số AA/2021/0009043 ngày 18/3/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cam Lâm; bà Văn Thị Bích T đã nộp đủ tiền án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

5. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

6. Quy định: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 37/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:37/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cam Lâm - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:07/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về