Bản án về ly hôn số 333/2022/HNGĐ/ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NĐ, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 333/2022/HNGĐ/ST NGÀY 08/09/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 08 tháng 9 năm 2022, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố NĐ, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 108/2022/TLST/HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 101/2021/QĐXXST/HNGĐ ngày 25/08/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Bích P, sinh năm 1988; đăng ký hộ khẩu: Số nhà 14/265 đường Trường C, phường QT, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định; nơi ở: Số nhà 14/31/111 đường MTB, phường QT, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định. Có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Bà Đỗ Thị Minh T / Luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Nam Định.

Bị đơn: Anh Vũ Tuấn M, sinh năm 1983; Đăng ký hộ khẩu và nơi ở: Số nhà 14/265 đường Trường C, phường QT, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Tại đơn khởi kiện tranh chấp về hôn nhân và gia đình nộp ngày 06/05/2022, trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Bích P trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Vũ Tuấn M kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường QT, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định năm 2013. Anh chị đã chung sống với nhau từ năm 2011. Vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc được thời gian đầu thì sau khi chị sinh con nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, vợ chồng không có tiếng nói chung. Vợ chồng không chia sẻ và đồng cảm với nhau trong công việc cũng như trong cuộc sống. Khi mâu thuẫn anh M chửi bới, xúc phạm chị trước mặt con, thậm chí còn đánh đập chị. Mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng vào năm 2021 do anh M ghen tuông vô cớ đã đánh đập chị, vợ chồng không tìm được biện pháp khắc phục mâu thuẫn nên đã sống ly thân từ đầu năm 2022 cho đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị có nguyện vọng ly hôn anh M.

Về con chung: Vợ chồng anh chị có 01 con chung là Vũ Tuệ Minh A (giới tính: Nữ), sinh ngày 09/01/2013. Nếu ly hôn, chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung. Chị yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con 3.000.000 đồng/tháng. Hiện tại, cháu Minh A đang ở cùng chị tại địa chỉ số 14/31/111 đường MTB, phường QT, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định. Cháu Minh A bị bệnh hẹp lồng ngực, đã phẫu thuật lần 1 vào tháng 3 năm 2022 và hiện nay đang sống cùng chị. Sau 24 tháng nữa sẽ phẫu thuật lần 2 để tháo thanh nâng ngực ra nên rất cần sự chăm sóc của người mẹ. Hiện nay cháu đang học lớp 4A2 trường Tiểu học KĐ thành phố NĐ. Chị là Giáo viên trường THCS Lê Đức Thọ, thành phố NĐ nên chị có khả năng đảm bảo thời gian chăm sóc con và kiến thức dạy dỗ con. Đồng thời, cháu Minh A có nguyện vọng được ở với mẹ. Thu nhập của chị là khoảng 11.000.000 đồng/tháng.

Về tài sản chung và vay nợ chung của vợ chồng: Chị xác định vợ chồng tự giải quyết và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Tại bản tự khai vào ngày 19/05/2022 và quá trình tham gia tố tụng, bị đơn anh Vũ Tuấn M trình bày:

Về hôn nhân: Thời gian, điều kiện kết hôn như chị P trình bày là đúng. Quá trình chung sống, anh chị có xảy ra những mâu thuẫn nhưng không lớn. Vào năm 2021 khi nhận đươc tin nhắn của vợ đồng nghiệp của chị P cho rằng chị P có quan hệ tình cảm với đồng nghiệp trong cơ quan thì mâu thuẫn xảy ra đỉnh điểm. Anh cũng muốn tin tưởng chị P nhưng chị P không chứng minh cho anh thấy. Tháng 02/2022 cho đến nay vợ chồng mâu thuẫn căng thẳng và sống ly thân, vợ chồng không tin tưởng nhau về tình cảm. Thời gian qua vợ chồng anh không có biện pháp khắc phục mâu thuẫn, mỗi người một nơi. Nay chị P kiên quyết ly hôn thì anh cũng đồng ý thuận tình ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng anh chị có 01 con chung là Vũ Tuệ Minh A (giới tính: Nữ), sinh ngày 09/01/2013. Nếu ly hôn anh có nguyện vọng trực tiếp nuôi con và không yêu cầu chị P cấp dưỡng nuôi con. Anh xác nhận hiện nay cháu Minh A đang bị bệnh và đang sống cùng chị P đúng như trình bày của chị P. Anh là lái xe và nhân viên tư vấn bất động sản với mức thu nhập khoảng 10.000.000 đồng/tháng. Nếu nuôi con thì anh sẽ đưa con về sống cùng nhà với mẹ anh nên đảm bảo điều kiện chăm sóc con tốt vì có sự hỗ trợ của bà nội.

Nếu chị P trực tiếp chăm sóc, giáo dục nuôi dưỡng con chung anh cũng nhất trí cấp dưỡng nuôi con 3.000.000 đồng/tháng.

Về tài sản chung và vay nợ chung của vợ chồng: Anh xác định vợ chồng tự giải quyết và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Tại biên thu thập tài liệu chứng cứ ngày 17/06/2022 tại chính quyền địa phương đã xác nhận tình trạng hôn nhân giữa chị P và anh M có mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng không hợp nhau, luôn bất đồng quan điểm. Vợ chồng anh chị có 01 con chung, hiện nay con chung đang sinh sống cùng chị P. Đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

4. Tại đơn đề nghị ngày 27/5/2022 và đơn đề nghị ngày 23/8/2022 có xác nhận của cô giáo chủ nhiệm lớp 4A2 trường Tiểu học KĐ thành phố NĐ của cháu Vũ Tuệ Minh A, cháu Minh A trình bày nguyện vọng được mẹ trực tiếp nuôi dưỡng nếu bố mẹ ly hôn.

5. Tại phiên tòa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn / chị Nguyễn Thị Minh P là luật sư Đỗ Thị Minh T có quan điểm: Phân tích về điều kiện chỗ ở, tính chất công việc và thu nhập của hai bên đương sự, đồng thời phân tích về tâm sinh lý giới tính cũng như sự phát triển của trẻ. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ nguyện vọng của cháu Vũ Tuệ Minh A để giao con chung cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng. Về việc cấp dưỡng nuôi con đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận sự tự nguyện của anh M cấp dưỡng 3.000.000 đồng/tháng.

6. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố NĐ, tỉnh Nam Định căn cứ Điều 21, Điều 262 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nhận xét đánh giá:

Về quá trình tiến hành tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật.

Về việc chấp hành pháp luật của các đương sự: Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: Quan hệ hôn nhân giữa chị P và anh M là hôn nhân hợp pháp. Nay hôn nhân của chị P và anh M đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mâu thuẫn kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được anh chị thuận tình ly hôn. Do đó căn cứ Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đề nghị Hội đồng xét xử xử công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Bích P và anh Vũ Tuấn M. Về con chung: Căn cứ Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đề nghị giao con chung là Vũ Tuệ Minh A (giới tính: Nữ), sinh ngày 09/01/2013 cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng. Anh M cấp dưỡng nuôi con 3.000.000 đồng/ tháng kể từ tháng 09/2021 cho đến khi con chung thành niên, có khả năng lao động được là phù hợp với quy định của pháp luật. Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/ 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chị P tự nguyện nộp án phí ly hôn sơ thẩm; Án phí cấp dưỡng nuôi con: Anh M phải nộp theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Bích P và anh Vũ Tuấn M kết hôn trên cơ sở tự nguyện, anh chị có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường QT, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định vào năm 2013 nên hôn nhân giữa chị P và anh M là hôn nhân hợp pháp.

[2] Về tình cảm: Quá trình chung sống chị P và anh M phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng không hợp nhau, vợ chồng bất đồng về quan điểm sống và không có tiếng nói chung trong cuộc sống hôn nhân, vợ chồng không tin tưởng nhau về tình cảm. Nay chị P xác định tình cảm vợ chồng không còn và đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn. Tòa án đã hòa giải phân tích, tạo điều kiện cho chị P và anh M khắc phục mâu thuẫn nhưng anh M và chị P xác định không có biện pháp hàn gắn mâu thuẫn, anh M cũng nhất trí ly hôn. Xét sự thuận tình ly hôn của chị P và anh M là hoàn toàn tự nguyện nên Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận sự thuận tình ly hôn của chị P và anh M.

[3] Về việc nuôi con chung: Chị P và anh M có một con chung là Vũ Tuệ Minh A (giới tính: Nữ), sinh ngày 09/01/2013. Xét điều kiện về chỗ ở, công việc và mức thu nhập của hai bên đều ổn định và tương đương nhau. Tuy nhiên, cháu Vũ Tuệ Minh A hiện nay đang bị bệnh và vẫn còn phải phẫu thuật tiếp, cháu đang sống cùng chị P. Cháu Minh A là con gái nên rất cần sự chăm sóc chia sẻ về quá trình phát triển tâm sinh lý của người mẹ. Hơn nữa, chị P là giáo viên nên có chuyên môn, có thể đồng hành cùng con trong việc học tập. Ngoài ra, nguyện vọng của cháu Minh A tha thiết muốn được ở với mẹ khi bố mẹ ly hôn. Vì vậy, để ổn định tâm lý của trẻ và đảm bảo điều kiện về mọi mặt cho trẻ khi bố mẹ ly hôn Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, giao con chung cho chị P trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp với thực tế và quy định của pháp luật.

[4] Về việc cấp dưỡng nuôi con: Xét nguyện vọng của chị P và anh M về mức cấp dưỡng nếu chị P nuôi con anh M cấp dưỡng nuôi con 3.000.000 đồng/tháng. Xét thu nhập của anh M và nhu cầu sinh hoạt, học tập của trẻ, mức cấp dưỡng này là phù hợp nên được chấp chận.

[5] Về tài sản chung và vay nợ chung của vợ chồng: Chị P và anh M xác nhận vợ chồng tự giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội chị Nguyễn Thị Bích P tự nguyện nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm; án phí cấp dưỡng nuôi con: Anh M là người có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con nên phải nộp án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 55, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015Căn cứ vào khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Xử công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Bích P và anh Vũ Tuấn M.

2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị Bích P trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là Vũ Tuệ Minh A (giới tính: Nữ), sinh ngày 09/01/ 2013. Chấp nhận sự tự nguyện của anh Vũ Tuấn M cấp dưỡng nuôi con 3.000.000 đồng/tháng (Ba triệu đồng một tháng) kể từ tháng 9/2022 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, có khả năng lao động được.

Bên không trực tiếp nuôi con chung có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Không ai được hạn chế, cản trở các quyền này.

Bên không trực tiếp nuôi con chung có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi con, không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng con của người trực tiếp nuôi con chung.

3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Bích P tự nguyện nộp 150.000 đồng (Một trăm năm mươi trăm nghìn đồng). Khấu trừ khoản tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) chị Nguyễn Thị Bích P đã nộp tại biên lai số 0005251 ngày 06/5/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố NĐ. Trả lại chị Nguyễn Thị Bích P 150.000 đồng (Một trăm năm mươi trăm nghìn đồng).

Án phí cấp dưỡng nuôi con: Anh Vũ Tuấn M phải nộp 150.000 đồng (Một trăm năm mươi trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Bích P và anh Vũ Tuấn M có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

5. Trong trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì Chị Nguyễn Thị Bích P và anh Vũ Tuấn M có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 333/2022/HNGĐ/ST

Số hiệu:333/2022/HNGĐ/ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:08/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về