Bản án về ly hôn số 33/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T SƠN - TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 33/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 14 tháng 9 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T Sơn, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 104/2022/TLST - HNGĐ ngày 11 tháng 5 năm 2022 về việc Ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 17 tháng 8 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số: 45/2022/QĐST - DS ngày 30 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Đinh Thị Q, sinh năm 1988.

HKTT: Khu O, xã Hương C, huyện T Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Chỗ ở hiện nay: Khu T, xã Y, huyện T Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Bị đơn: Anh Đinh Văn Th, sinh năm 1985.

HKTT: Khu O, xã Hương C, huyện T Sơn, tỉnh Phú Thọ.

(Chị Q có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh T vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 25/4/2022, bản tự khai ngày 18/5/2022 và biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ tại Tòa án nguyên đơn chị Đinh Thị Q trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Q và anh Đinh Văn T xây dựng gia đình với nhau làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã Hương C, huyện T Sơn, tỉnh Phú Thọ tháng 5 năm 2020. Sau kết hôn vợ chồng chung sống cùng với bố mẹ anh T tại xã Hương C, huyện T Sơn, tình cảm vợ chồng hạnh phúc được hơn một năm. Đến năm 2021 mâu thuẫn vợ chồng phát sinh, nguyên nhân chính là do vợ chồng không cùng quan điểm trong cách sống, trong làm ăn kinh tế gia đình nên có lời qua tiếng lại dẫn đến cãi nhau, xúc phạm nhau, anh T hay chơi bời không chăm lo đến gia đình. Vợ chồng không tin tưởng vào tình cảm của nhau, nhiều khi anh T có ghen tuông chuyện tình cảm, bản thân Chị Q với gia đình nhà chồng cũng không được hòa thuận, êm ấm. Khi mâu thuẫn vợ chồng xẩy ra thì bố mẹ hai bên gia đình có biết, có khuyên bảo, nhưng mâu thuẫn vợ chồng vẫn không có cải thiện gì. Chính vì cuộc sống gia đình căng thẳng nên vợ chồng ly thân từ khoảng năm đầu năm 2022 đến nay mỗi người một nơi, không ai còn quan tâm đến nhau, anh T đi làm ăn, khi ly hôn Chị Q có gọi anh T nhưng anh bảo bận đi làm không về được, Chị Q về nhà bố mẹ tại xã Y, huyện T Sơn để ở. Nay Chị Q xác định tình cảm với anh T không còn, hôn nhân không đem lại hạnh phúc nên chị đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Chị Đinh Thị Q trình bày vợ chồng không có con chung.

Về tài sản chung: Chị Đinh Thị Q trình bày vợ chồng có một số tài sản chung nhưng không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Về nợ chung, công sức đóng góp và tư trang riêng: Chị Đinh Thị Q trình bày vợ chồng không có, ly hôn chị không có đề nghị gì.

Phía bị đơn: Anh Đinh Văn T đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo qui định nhưng vẫn cố tình trốn tránh, không đến Tòa án. Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ tại nơi cư trú của bị đơn và thực hiện tống đạt các văn bản tố tụng thông qua bố đẻ anh T:

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã xác minh tại địa phương về tình trạng hôn nhân giữa Chị Q với anh T, lấy lời khai của bố đẻ anh T. Theo kết quả xác minh ngày 15/7/2022 tại khu hành chính Khu O, xã Hương C xác định anh T có hộ khẩu thường trú tại Khu O, xã Hương C, huyện T Sơn, tỉnh Phú Thọ. Tại biên bản lấy lời khai ngày 15/7/2022 của ông Đinh Văn T là bố đẻ anh T cũng xác định như sau: Năm 2020 con trai ông là anh T xây dựng gia đình, kết hôn với chị Đinh Thị Q, hai bên có được tự do tìm hiểu tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã Hương C, huyện T Sơn, tỉnh Phú Thọ. Sau khi kết hôn vợ chồng anh T, Chị Q đã về sống chung với gia đình nhà ông tại xã Hương C, huyện T Sơn được khoảng một năm thì mâu thuẫn vợ chồng phát sinh, nguyên nhân chủ yếu do vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không tôn trọng nhau. Ông T cũng thừa nhận một phần là lỗi ở con trai ông hay chơi bời, không tập trung làm ăn kinh tế gia đình, anh T còn hay uống rượu về nhà chửi mắng, đánh chị Q. Mặt khác vợ chồng không có con chung nên cũng không có tình cảm với nhau. anh T và Chị Q sống ly thân từ tháng 01 năm 2022 đến nay mỗi người một nơi, ai cũng có cuộc sống riêng không quan tâm đến nhau. Khi mâu thuẫn vợ chồng xẩy ra ông cũng có khuyên bảo để vợ chồng về đoàn tụ nhưng Chị Q kiên quyết không về chung sống với anh T. Thực tế vợ chồng anh T, Chị Q không có hạnh phúc, không ăn ở với nhau từ rất lâu. Quan điểm gia đình đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Về con chung: Ông T cũng xác định vợ chồng anh T, Chị Q không có con chung. Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp và tư trang riêng: Theo Ông T thì vợ chồng anh chị sống phụ thuộc gia đình nên không tạo lập được tài sản chung gì, nợ nần không có, chỉ có đồng dùng sinh hoạt gia đình. Về việc vắng mặt của anh T: Ông T cho Tòa án biết anh T đi làm thuê ở Hà Nội, anh làm công việc gì, địa chỉ cụ thể thế nào ông không biết, anh T thường xuyên điện thoại về cho gia đình hỏi thăm sức khỏe, thỉnh thoảng anh có về nhà chơi xong lại đi làm ăn. Ông có nhận được thông báo về việc thụ lý vụ án, các văn bản tố tụng khác của Tòa án, ông có gọi điện trực tiếp thông báo đến anh T nói về việc Tòa án giải quyết ly hôn, anh T cũng có nói lại với ông: Việc ly hôn anh có biết, khi làm đơn Chị Q cũng thông báo đến anh để anh thu xếp về giải quyết, Tòa án cũng có gọi điện thoại trực tiếp cho anh, tuy nhiên anh mới đi làm, công việc rất bận nên anh T không xin nghỉ được. anh T có nói với ông thực tế vợ chồng không ở với nhau thời gian dài, không còn tình cảm nữa, không có gì để giàng buộc nên anh nhất trí ly hôn để giải thoát cho nhau, ổn định cuộc sống, tài sản, nợ nần các vấn đề khác vợ chồng không có gì. Anh đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn vắng mặt anh theo quy định của pháp luật.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát:

Về việc tuân theo pháp luật: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của pháp luật, không có vi phạm gì. Các đương sự: Nguyên đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt đề ngày 05/9/2022. Bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Áp dụng Điều 56 - Luật hôn nhân và gia đình 2014. Đề nghị HĐXX chấp nhận đơn khởi kiện: Xử cho Chị Q được ly hôn anh Đinh Văn T.

Về con chung: Không có. Về tài sản chung, công nợ, công sức đóng góp: Không xem xét giải quyết vì Chị Q không yêu cầu.

Về án phí: Chị Q phải chịu án phí theo quy định của Pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ngày 10/5/2022 chị Đinh Thị Q nộp đơn khởi kiện về việc ly hôn đối với anh Đinh Văn T, đây là tranh chấp Hôn nhân gia đình được Tòa án nhân dân huyện T Sơn, tỉnh Phú Thọ thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về sự vắng mặt của các đương sự: Nguyên đơn chị Đinh Thị Q có đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 05/9/2022, bị đơn anh Đinh Văn T được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên đây là vụ án không thể tiến hành hòa giải được, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị Q, anh T là phù hợp quy định tại khoản 1+3 Điều 228; Điều 238 - Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung: Về quan hệ hôn nhân: Chị Q và anh T có đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình, anh chị đã thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn tháng 5 năm 2020 tại UBND xã Hương C, huyện T Sơn, tỉnh Phú Thọ. Quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp, nhưng khi chung sống cả hai không cùng nhau vun đắp xây dựng mối quan hệ hôn nhân của mình bền vững, hạnh phúc. Quan hệ hôn nhân đó đã bị đổ vỡ, nguyên nhân do cả hai không biết trân trọng cuộc sống hôn nhân của mình và cho rằng tính tình không hợp nhau, quan điểm sống khác nhau dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau, xúc phạm, không tôn trọng, tin tưởng nhau.Vợ chồng đã sống ly thân một thời gian dài, không cùng thực hiện quyền và nghĩa vụ vợ chồng với nhau.

Về mâu thuẫn vợ chồng: Kết quả thu thập chứng cứ của Tòa án và lời trình bày của bố anh T - ông Đinh Văn T (BL 38) phù hợp với trình bày của Chị Q về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn vợ chồng, đủ cơ sở chứng minh: Mâu thuẫn vợ chồng chị Q, anh T xẩy ra đã lâu, cuộc sống chung của vợ chồng đã trầm trọng, thực tế cuộc sống hôn nhân không còn tồn tại, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Chị Q đối với anh T là có căn cứ qui định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về con chung: Chị Đinh Thị Q và anh Đinh Văn T không có con chung.

Về tài sản chung: Chị Đinh Thị Q không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết. anh T không đến Tòa án làm việc nên không có quan điểm gì về vấn đề trên.

Về nợ chung, công sức đóng góp và tư trang riêng: Vì anh T vắng mặt không có quan điểm gì và Chị Q xác định vợ chồng không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[3] Về án phí: Chị Đinh Thị Q phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Các đương sự được quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 51, Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147, khoản 1+3 Điều 228, Điều 238; Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đinh Thị Q được ly hôn anh Đinh Văn T.

2. Về án phí: Chị Đinh Thị Q phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Xác nhận Chị Q đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu số: AA/2020/0006807 ngày 11/5/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện T Sơn, tỉnh Phú Thọ. Nay chuyển thành án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở UBND xã nơi các đương sự thường trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 33/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:33/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về