Bản án về ly hôn số 33/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ QUAO, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 33/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/05/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 17 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 238/2021/TLST- HNGĐ ngày 07 tháng 12 năm 2021, về việc “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2022/QĐXXST-HNGĐ, ngày 08 tháng 4 năm 2022; giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Đặng Minh Y, sinh năm 1987. (Có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: ấp 1, xã V, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Cẩm G, sinh năm 1990. (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp AT, xã ĐA, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn anh Đặng Minh Y có đơn xin vắng mặt, theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu có trong hồ sơ thể hiện:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Đặng Minh Y và chị Nguyễn Thị Cẩm Gi quen biết tự nguyện tìm hiểu và quyết định kết hôn với nhau, hôn nhân tự nguyện có tổ chức đám cưới vào năm 2007, nhưng đến ngày 20/12/2012 mới đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Vĩnh Hòa Hưng Nam, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang. Sau khi kết hôn, anh Y và chị Gi sống hạnh phúc được chín năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do hai người không hợp nhau, bất đồng quan điểm, nên thường xuyên cãi nhau, cuộc sống không có hạnh phúc, hiện nay chị Gi đã bỏ đi làm ăn xa và vợ chồng đã ly thân từ năm 2018 đến nay, anh Y xét thấy không thể hàn gắn hôn nhân lại được vì anh Y và chị Gi không còn quan tâm chăm sóc với nhau nữa, anh không còn tình cảm với chị Gi nên anh yêu cầu xin ly hôn với chị Gi.

Về con chung: Thời gian chung sống, anh Y chị Gi có một người con chung là Đặng Minh Kh, sinh ngày 17/7/2009, cháu Kh do chị Gi trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc từ khi vợ chồng ly thân cho đến nay, anh Y đồng ý giao cháu Kh cho chị Gi nuôi dưỡng.

Tài sản chung, nợ chung: Anh Y xác định không có và không có yêu cầu giải quyết.

Bị đơn chị Nguyễn Thị Cẩm Gi vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt, niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật, nhưng chị Gi không có mặt cũng không cung cấp bản tự khai nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến hay bất cứ yêu cầu nào của chị Gi.

Đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, người tham gia tố tụng; việc thu thập tài liệu, chứng cứ, cấp tống đạt văn bản tố tụng cho người tham gia tố tụng và Viện kiểm sát đúng quy định.

Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử, Thư ký chấp hành đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn đã được thông báo, tống đạt các văn bản tố tụng đúng quy định nhưng đều vắng mặt là không tuân thủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cho anh Đặng Minh Y được ly hôn với chị Nguyễn Thị Cẩm Gi.

Về con chung: Giao cháu Đặng Minh Kh, sinh ngày 17/7/2009, cho chị Gi chăm sóc, nuôi dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung anh Y xác định không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề nghị xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện các chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn Chị Nguyễn Thị Cẩm Gi có hộ khẩu thường trú tại ấp An Trung, xã Định An, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang, theo quy định tại Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang.

Về xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án: Quá trình giải quyết vụ án anh Đặng Minh Y yêu cầu được ly hôn với chị Nguyễn Thị Cẩm Gi. Từ đó có đủ căn cứ để xác định quan hệ “Ly hôn” được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Đối với bị đơn chị Nguyễn Thị Cẩm Gi Tòa án đã thực hiện tống đạt, niêm yết hợp lệ, nhưng chị Gi vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị Gi.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Y chị Gi chung sống với nhau từ năm 2007, việc chung sống là hoàn toàn tự nguyện có tổ chức lễ cưới và được hai bên gia đình đồng ý, đến năm 2012 thực hiện đăng ký kết hôn theo giấy trích lục kết hôn số 1627 ngày 01/10/2021 của ủy ban nhân dân xã Vĩnh Hòa Hưng Nam, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang, theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, hôn nhân của anh chị là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ.

Xét yêu cầu ly hôn của anh Đặng Minh Y xin được ly hôn với chị Nguyễn Thị Cẩm Gi với lý do vợ chồng không còn hợp nhau, thường xuyên xãy ra mâu thuẫn về tiền bạc, hay cãi nhau. Trong quá trình giải quyết vụ án đối với bị đơn là chị Gi Tòa án đã nhiều lần tống đạt và thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng, tống đạt Thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhằm tạo điều kiện cho vợ chồng anh chị hòa giải, đoàn tụ với nhau nhưng chị Gi đều vắng mặt không có lý do, chứng tỏ chị Gi không có thiện chí để hòa giải đoàn tụ, qua lời trình bày tại phiên tòa và các lời khai của anh Y có trong hồ sơ thể hiện: Vợ chồng anh chị không còn liên lạc và cũng không gặp nhau từ năm 2020 đến nay nay, anh Y không còn yêu thương quan tâm đến chị Gi nữa, vợ chồng đã sống ly thân một thời gian dài từ năm 2020 đến nay, mỗi người đã có cuộc sống riêng, Ý không còn tình cảm với chị Gi nên anh Y kiên quyết ly hôn với chị Gi. Như vậy cuộc sống hôn nhân của vợ chồng anh chị đã không thể hàn gắn được nữa, tình cảm vợ chồng không còn, sự mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó áp dụng khoản 1 Điều 51, Điều 56 Luật HNGĐ 2014 xử cho anh Đặng Minh Y được ly hôn với chị Nguyễn Thị Cẩm Gi là có cơ sở và đúng pháp luật.

[3] Về con chung: Anh Đặng Minh Y xác định anh Y và chị Gi có một con chung là cháu Đặng Minh Kh, sinh ngày 17/7/2009, cháu Khang do chị Gi trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc từ khi vợ chồng ly thân cho đến nay, cháu Khang có nguyện vọng sống với chị Gi, từ khi sống với chị Gi cháu Kh vẫn phát triển bình thường, anh Y đồng ý giao cháu Kh cho chị Gi nuôi dưỡng, do đó cần chấp nhận theo nguyện vọng của cháu Kh, giao cháu Kh cho chị Gi tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp.

Từ khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến khi mở phiên tòa xét xử, chị Gi đều không có mặt cũng không có ý kiến gì đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung Căn cứ theo khoản 2 Điều 91 BLTTDS năm 2015 nên Hội đồng xét xử không xem xét nguyện vọng của chị Gi.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Anh Y xác định vợ chồng không có tài sản chung và không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, HĐXX không xem xét.

[5] Xét ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ phù hợp với quy định pháp luật nên HĐXX chấp nhận.

[6] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: là 300.000đ buộc anh Đặng Minh Y phải chịu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 91; khoản 1 Điều 207; khoản 2 Điều 208; khoản 1, khoản 3 Điều 228; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 58; Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điểm a, khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Đặng Minh Y về việc xin ly hôn với chị Nguyễn Thị Cẩm Gi.

1. Về hôn nhân: Xử cho anh Đặng Minh Y ly hôn với chị Nguyễn Thị Cẩm Gi.

2. Về con chung: Giao cháu Đặng Minh Kh, sinh ngày 17/7/2009, cho chị Nguyễn Thị Cẩm Gi chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu Kh đủ 18 tuổi, anh Y không phải cấp dưỡng nuôi con, anh Y có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Anh chị có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi quyền nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Buộc Đặng Minh Y nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 0006562, ngày 06/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang.

4. Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định.

Trường hợp bản án, quyết định thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7,7a,7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

394
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 33/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:33/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Quao - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về