TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 31/2024/HNGĐ-ST NGÀY 29/02/2024 VỀ LY HÔN
Ngày 29 tháng 02 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 381/2023/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 11 năm 2023 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2022/QĐXX-ST ngày 17 tháng 01 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên toà số: 26/2024/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 02 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Trần Kim Ch1, sinh năm 1972; (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt) Nơi cư trú: tổ 03, ấp V, xã Vĩnh H, huyện Ch, tỉnh A.
2. Bị đơn: Ông Phạm Văn Đ, sinh năm 1969; (vắng mặt) Nơi cư trú: tổ 03, ấp V, xã Vĩnh H, huyện Ch, tỉnh A.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Nguyên đơn bà Trần Kim Ch1 trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Phạm Văn Đ chung sống với nhau từ đầu năm 1987 (qua Tết âm lịch), hôn nhân do quen biết, tự nguyện sống chung như vợ chồng, không có đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn bà về chung sống với gia đình cha mẹ chồng. Đến năm 1989, bà và ông Đ mua đất cất nhà ra riêng gần nhà cha mẹ bà, làm ăn sinh sống. Bà và ông Đ sống êm ấm được khoảng hơn 06 năm thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng trong cuộc sống, ông Đ sinh ra nhậu nhẹt thường xuyên, lại có mối quan hệ bất chính với người phụ nữ khác, bỏ bê gia đình, vợ con. Ông Đ thường xuyên kiếm chuyện, mắng chửi, nhục mạ bà vô cớ, thậm chí còn đánh đập bà nhiều lần, hàng xóm ai cũng biết… Từ đó dẫn đến bất đồng trong tình cảm, vợ chồng không còn tôn trọng và tin tưởng nhau, gia đình không còn êm ấm. Nhận thấy tình cảm vợ chồng bị rạn nứt, do mâu thuẫn ngày càng nhiều, không thể hòa giải được, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu ly hôn với ông Đ.
- Về quan hệ con chung: có 03 con chung tên là: Phạm Văn Y, sinh ngày 13/02/1988, Phạm Ngọc N, sinh ngày 24/11/1991 và Phạm Ngọc N2, sinh ngày 10/11/1993. Hiện các con đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về tài sản chung và nợ chung: tự thỏa thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.
* Toà án đã nhiều lần triệu tập bị đơn ông Phạm Văn Đ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải, cũng như tham gia phiên toà nhưng ông Đ đều vắng mặt không có lý do, đồng thời cũng không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn. Toà án đã tiến hành các thủ tục xác minh, lấy lời khai bị đơn tại nơi cư trú nhưng ông Đ không có mặt ở nhà khi cán bộ Toà án đến, nên Toà án không lấy được lời khai của bị đơn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành phát biểu ý kiến:
+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của nguyên đơn, bị đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
+ Về việc giải quyết vụ án: Về hôn nhân: Bà Trần Kim Ch1 và ông Phạm Văn Đ kết hôn với nhau vào năm 1987 (qua Tết âm lịch nhằm ngày 29/01/1987 dương lịch), hôn nhân do quen biết, tự nguyện chung sống như vợ chồng, không có đăng ký kết hôn. Do đó hôn nhân của ông, bà đã vi phạm Điều 9 Luật hôn nhân gia đình năm 2014. Căn cứ vào khoản 1 Điều 14, Điều 53 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 thì hôn nhân của bà Ch1 và ông Đ không được công nhận là hôn nhân hợp pháp, do đó đề nghị Hội đồng xét xử không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Ch1 và ông Đ.
Về con chung: đã trưởng thành đề nghị không đặt ra xem xét.
Về tài sản chung, nợ chung: không có nên không đặt ra xem xét. Về án phí: bà Ch1 phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:
[1.1] Thẩm quyền giải quyết: bị đơn ông Phạm Văn Đ có nơi cư trú tại: tổ 03, ấp Vĩnh Phúc, xã Vĩnh Hanh, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang, căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
[1.2] Quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn bà Trần Kim Ch1 khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Phạm Văn Đ, căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thì đây là vụ án về tranh chấp ly hôn.
[1.3] Về sự vắng mặt của đương sự:
Ngày 06/02/2024, nguyên đơn bà Trần Kim Ch1 có đơn xin xét xử vắng mặt được Hội đồng xét xử chấp nhận. Bị đơn ông Phạm Văn Đ đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không lý do, căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt đối với các đương sự.
[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Kim Ch1 thấy: [2.1] Về quan hệ hôn nhân:
Nguyên đơn bà Ch1 trình bày bà và ông Phạm Văn Đ chung sống với nhau từ đầu năm 1987 (qua Tết âm lịch), hôn nhân do quen biết, tự nguyện sống chung như vợ chồng, không có đăng ký kết hôn. Bà và ông Đ sống êm ấm được khoảng hơn 06 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo bà Ch1 trình bày do vợ chồng bất đồng trong cuộc sống, ông Đ sinh ra nhậu nhẹt thường xuyên, lại có mối quan hệ bất chính với người phụ nữ khác, bỏ bê gia đình, vợ con, ông Đ thường xuyên kiếm chuyện, mắng chửi, nhục mạ bà vô cớ, thậm chí còn đánh đập bà nhiều lần, hàng xóm ai cũng biết… Từ đó dẫn đến vợ chồng không còn tôn trọng và tin tưởng nhau, gia đình không còn êm ấm.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã nhiều lần triệu tập bị đơn ông Đ nhưng ông vẫn vắng mặt không lý do, cũng như không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, điều này chứng tỏ ông Đ không có nguyện vọng đoàn tụ với bà Ch1. Tất cả điều này cho thấy tình cảm giữa bà Ch1 và ông Đ đã thật sự rạn nứt, hôn nhân giữa ông, bà đã chấm dứt trên thực tế.
Bà Ch1 trình bày bà và ông Đ chung sống với nhau từ đầu năm 1987 (qua Tết âm lịch), cụ thể ngày 01/01/1987 - âm lịch tương ứng là ngày 29/01/1987 – dương lịch, như vậy quan hệ vợ chồng của bà Ch1, ông Đ được xác lập sau ngày 03/01/1987 nên không được xem là hôn nhân thực tế. Căn cứ điểm b khoản 3 Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 về thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000: “Từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01 tháng 01 năm 2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.
Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng.” Căn cứ khoản 1 Điều 131 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định quan hệ hôn nhân được xác lập trước ngày luật này có hiệu lực thì áp dụng pháp luật hôn nhân gia đình tại thời điểm xác lập để giải quyết, do đó các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 được áp dụng để giải quyết mối quan hệ hôn nhân giữa bà Ch1 và ông Đ.
Tại Điều 87 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Toà án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật này.” Do bà Ch1 và ông Đ từ khi chung sống đến nay không đăng ký kết hôn nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 11, Điều 87 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Ch1 và ông Đ.
[2.2] Về quan hệ con chung: có ba con chung tên là: Phạm Văn Y, sinh ngày 13/02/1988, Phạm Ngọc N, sinh ngày 24/11/1991 và Phạm Ngọc N2, sinh ngày 10/11/1993, hiện các con chung đã trưởng thành nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Ch1 trình bày tài sản chung và nợ chung tự thỏa thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết. Trường hợp sau này có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết bằng một vụ án khác.
[3] Về án phí: Bà Trần Kim Ch1 phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí số 0004284 ngày 21/11/2023 của Ch1 cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
[4] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự, nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238, khoản 4 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Khoản 1 Điều 131 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Khoản 1 Điều 11, Điều 87 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;
Điểm b khoản 3 Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000;
Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Kim Ch1.
- Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Trần Kim Ch1 và ông Phạm Văn Đ.
- Về quan hệ con chung: có ba con chung tên là: Phạm Văn Y, sinh ngày 13/02/1988, Phạm Ngọc N, sinh ngày 24/11/1991 và Phạm Ngọc N2, sinh ngày 10/11/1993. Hiện tại con đã trưởng thành nên không đặt ra xem xét, giải quyết.
- Về tài sản chung, nợ chung: tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Trường hợp sau này có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết bằng một vụ án khác.
Về án phí: Bà Trần Kim Ch1 phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí số 0004284 ngày 21/11/2023 của Ch1 cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
Về quyền kháng cáo: Bà Trần Kim Ch1 và ông Phạm Văn Đ được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn số 31/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 31/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về