Bản án về ly hôn số 299/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 299/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/04/2022 VỀ LY HÔN

Trong ngày 22 tháng 4 năm 2022, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 274/2021/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 3 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 58/2022/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lê Thị Trang Đ, sinh năm 1991 – Có đơn xin vắng mặt.

Địa chỉ: Nhà không số kế B3/46 ấp 2, xã Vĩnh L, huyện Bình C, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Ông Lê Văn Tr, sinh năm 1988 – Vắng mặt.

Địa chỉ: B3/41 ấp 2, xã Vĩnh L, huyện Bình C, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong Đơn khởi kiện về việc ly hôn đề ngày 05/3/2021, bản tự khai ngày 09/4/2021, biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 05/5/2021 và biên bản về việc không tiến hành hòa giải được ngày 05/5/2021, nguyên đơn bà Lê Thị Trang Đ trình bày:

Bà Đ và ông Lê Văn Tr chung sống với nhau từ năm 2008, có tổ chức đám cưới, do tự tìm hiểu và có đăng ký kết hôn vào ngày 02/10/2009 tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh L, huyện Bình C, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn số 216, quyển số 01/2009. Thời gian đầu ông bà chung sống hạnh phúc, không có gì xảy ra. Đến năm 2017, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm, tính tình không còn hòa hợp, ông Tr thường xuyên say xỉn không chăm lo cho gia đình. Hạnh phúc vợ chồng không còn dù bà Trang Đài đã cố gắng hàn gắn, cho ông Tr nhiều cơ hội nhưng ông Tr không thay đổi. Bà Đ và ông Tr đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được, nay bà Lê Thị Trang Đ yêu cầu được ly hôn với ông Lê Văn Tr.

Về con chung: Bà Lê Thị Trang Đ và ông Lê Văn Tr chung sống có 01 con chung tên là Lê Minh Đ1 (nam), sinh ngày 11/5/2009. Khi ly hôn, bà Đ yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông Tr cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà Lê Thị Trang Đ xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa:

1/ Bị đơn ông Lê Văn Tr vắng mặt trong toàn bộ quá trình Tòa án giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay mà không có bất ký văn bản nào thể hiện ý kiến hay yêu cầu của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

2/ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa đã phát biểu ý kiến như sau:

+ Về tố tụng: Trong suốt quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Trang Đ đối với ông Lê Văn Tr.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Bà Lê Thị Trang Đ khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Lê Văn Tr. Căn cứ vào Phiếu trả lời xác minh do Công an xã Vĩnh L, huyện Bình C, Thành phố Hồ Chí Minh cung cấp (Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh nhận ngày 12/5/2021, Công văn đến số 1418) thì có kết quả như sau: “Đ/s Lê Văn Tr, sinh năm 1988, thường trú tại: B3/41 tổ 14, ấp 2, xã Vĩnh L, huyện Bình C, TP.HCM hiện tại có mặt tại địa phương”. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự:

+ Ông Lê Văn Tr đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do nên căn cứ theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Lê Văn Tr.

+ Bà Lê Thị Trang Đ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên căn cứ theo quy định tại Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà Lê Thị Trang Đ.

[3] Về các yêu cầu của các đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy như sau:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ theo Giấy chứng nhận kết hôn số 216, quyển số 01/2009 do Ủy ban nhân dân xã Vĩnh L, huyện Bình C, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 02/10/2009 thì có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa bà Lê Thị Trang Đ và ông Lê Văn Tr là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Xét thấy trong quá trình giải quyết vụ án, bà Lê Thị Trang Đ trình bày: Bà và ông Lê Văn Tr chung sống với nhau từ năm 2008, có tổ chức đám cưới, do tự tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh L, huyện Bình C, Thành phố Hồ Chí Minh. Thời gian đầu ông bà chung sống hạnh phúc, không có gì xảy ra. Đến năm 2017, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm, tính tình không còn hòa hợp, ông Tr thường xuyên say xỉn không chăm lo cho gia đình. Hạnh phúc vợ chồng không còn dù bà Trang Đài đã cố gắng hàn gắn, cho ông Tr nhiều cơ hội nhưng ông Tr không thay đổi. Bà Đ và ông Tr đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được, nay bà Lê Thị Trang Đ yêu cầu được ly hôn với ông Lê Văn Tr.

Hiện nay, bà Lê Thị Trang Đ và ông Lê Văn Tr mỗi người sống mỗi nơi không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, cả hai đã ly thân hơn 05 năm nay. Mục đích hôn nhân giữa bà Đ và ông Tr đã không còn, bà Đ không muốn chung sống với ông Tr nữa.

Căn cứ vào Công văn số 1663/UBND ngày 22/4/2021 của Ủy ban nhân dân xã Vĩnh L, huyện Bình C, Thành phố Hồ Chí Minh về việc xác minh tình trạng hôn nhân của bà Lê Thị Trang Đ tại ấp 2, xã Vĩnh Lộc A thì có kết quả như sau: “Hiện tại giữa bà Lê Thị Trang Đ với ông Lê Văn Tr không còn chung sống với nhau và đã ly thân vào tháng 02 năm 2017 đến nay. Hiện bà Lê Thị Trang Đ ngụ tại nhà không số tổ 14, ấp 2, xã Vĩnh L, huyện Bình C. Trong quá trình sinh sống tại địa phương, giữa bà Lê Thị Trang Đ và ông Lê Văn Tr có mâu thuẫn, nguyên nhân do cả hai không hòa hợp trong cuộc sống hôn nhân…”.

Ông Lê Văn Tr dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản thể hiện yêu cầu cầu của nguyên đơn gồm: Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và Giấy triệu tập đương sự nhiều lần nhưng vẫn không đến Tòa để giải quyết vụ án, cũng không có bất kỳ văn bản nào thể hiện ý kiến hay yêu cầu của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Mặt khác, ông Lê Văn Tr cũng không thể hiện thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng với bà Lê Thị Trang Đ. Như vậy, ông Lê Văn Tr đã tự tước bỏ quyền được chứng minh của mình, nên ông Lê Văn Tr phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được theo quy định tại Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự.

Do đó, Hội đồng xét xử xét nhận thấy việc bà Lê Thị Trang Đ yêu cầu ly hôn với ông Lê Văn Tr là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân gia đình. Từ các nhận định trên và xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Lê Thị Trang Đ đối với ông Lê Văn Tr.

[3.2] Về con chung:

Quá trình chung sống, bà Lê Thị Trang Đ và ông Lê Văn Tr có 01 con chung tên là Lê Minh Đ1 (nam), sinh ngày 11/5/2009. Khi ly hôn, bà Đ yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung vì các trẻ đã sống cùng với bà Đ từ nhỏ, kể cả trong thời gian bà Đ và ông Tr sống ly thân.

Căn cứ vào C1663/UBND ngày 22/4/2021 của Ủy ban nhân dân xã Vĩnh L, huyện Bình C, Thành phố Hồ Chí Minh về việc xác minh tình trạng hôn nhân của bà Lê Thị Trang Đ thì có kết quả như sau: “Về con chung, cả hai có một người con chung gồm: bé Lê Minh Đ1, sinh ngày 11 tháng 5 năm 2009. Hiện bé Đạt đang ở cùng với bà Lê Thị Trang Đ, ngụ tại nhà không số tổ 14, ấp 2, xã Vĩnh L, huyện Bình C…”.

Mặt khác, căn cứ bản tự khai ngày 09/4/2021 thì trẻ Lê Minh Đ1 (nam), sinh ngày 11/5/2009 có nguyện vọng được sống chung với mẹ là bà Lê Thị Trang Đ vì hàng ngày trẻ sống với bà Đ, bà Đ lo cho trẻ mọi chi phí sinh hoạt học tập.

Tại phiên tòa ông Lê Văn Tr vắng mặt, không có bất kỳ văn bản nào trình bày nguyện vọng về con chung khi ly hôn.

Xét thấy nguyện vọng của bà Lê Thị Trang Đ về con chung là phù hợp và cũng thuận lợi nhất cho trẻ vì bà Đ là mẹ lại gần gũi và chăm sóc con từ nhỏ nên bà Đ có đầy đủ điều kiện chăm sóc con chung tốt hơn ông Tr.

Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị Trang Đ về con chung: Giao trẻ Lê Minh Đ1 (nam), sinh ngày 11/5/2009 cho bà Lê Thị Trang Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Ghi nhận sự tự nguyện của bà Lê Thị Trang Đ về việc không yêu cầu ông Lê Văn Tr cấp dưỡng nuôi con.

[3.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Lê Thị Trang Đ xác định bà Lê Thị Trang Đ và ông Lê Văn Tr chung sống không có tài sản chung, không nợ ai.

Ông Lê Văn Tr vắng mặt trong toàn bộ quá trình Tòa án giải quyết vụ án và tại Tòa hôm nay, không có văn bản thể hiện ý kiến của mình về vấn đề tài sản chung và nợ chung giữ bà Lê Thị Trang Đ và ông Lê Văn Tr.

Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến vấn đề tài sản chung và nợ chung giữa bà Lê Thị Trang Đ và ông Lê Văn Tr. Nếu sau này các bên đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

[4] Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án thì Bà Lê Thị Trang Đ phải chịu án phí sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 91, khoản 4 Điều 147; Điều 227, Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 và Điều 116 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: 1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Lê Thị Trang Đ đối với ông Lê Văn Tr.

Quan hệ hôn nhân giữa bà Lê Thị Trang Đ và ông Lê Văn Tr chấm dứt. Giấy chứng nhận kết hôn số 216, quyển số 01/2009 do Ủy ban nhân dân xã Vĩnh L, huyện Bình C, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 02/10/2009 không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung:

Giao con chung tên là Lê Minh Đ1 (nam), sinh ngày 11/5/2009 cho bà Lê Thị Trang Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với ông Lê Văn Tr do bà Lê Thị Trang Đ có khả năng và không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con mà lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, trong trường hợp có yêu cầu được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Bà Lê Thị Trang Đ xác định bà Lê Thị Trang Đ và ông Lê Văn Tr chung sống không có tài sản chung. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến vấn đề tài sản chung giữa bà Lê Thị Trang Đ và ông Lê Văn Tr. Nếu sau này các bên đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

4. Về nợ chung: Bà Lê Thị Trang Đ xác định bà Lê Thị Trang Đ và ông Lê Văn Tr chung sống không nợ ai. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến vấn đề nợ chung giữa bà Lê Thị Trang Đ và ông Lê Văn Tr. Nếu sau này các bên đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Lê Thị Trang Đ phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0081123 ngày 16/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Lê Thị Trang Đ đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Bà Lê Thị Trang Đ và ông Lê Văn Tr có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 299/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:299/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về