TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH YÊN BÁI
BẢN ÁN 29/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/08/2021 VỀ LY HÔN
Ngày 05-8-2021, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện T, tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 49/2021/TLST-HNGĐ ngày 28-04-2021 về việc Ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 30-6- 2021, Quyết định hoãn phiên tòa dân sự số 10/2021/QĐST-HPT ngày 13-7-2021 và Thông báo mở lại phiên tòa số 04/TB-TA ngày 20-7-2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Cao Thị Ng, sinh năm 1984. Nơi cư trú: Thôn Kh, xã T, huyện T, tỉnh Yên Bái. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1981. Vắng mặt.
Nơi cư trú: Thôn Kh, xã T, huyện T, tỉnh Yên Bái.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 22-4-2021, các bản khai tiếp theo, nguyên đơn chị Cao Thị Ng trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn H kết hôn trên cơ sở tự do tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Yên Bái vào ngày 30-9-2019. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hoà thuận hạnh phúc được một tháng thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, tính tình vợ chồng không hòa hợp nên thường xuyên xảy ra tranh cãi nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hai bên gia đình và chính quyền địa phương hòa giải nhưng không thành, vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 10 năm 2019 đến nay không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn H.
Về con chung: Chưa có.
Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện T đã thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật và giao nhận, tống đạt các văn bản hợp lệ cho anh Nguyễn Văn H thông qua mẹ đẻ của anh là bà Ngô Thị H và trưởng thôn, bà Ngô Thị H và trưởng thôn đã cam kết nhận trách nhiệm giao lại cho anh H, nhưng anh H vẫn không có mặt. Vì vậy, không có lời khai và Tòa án cũng không tiến hành hòa giải được.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân huyện T nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Cao Thị Ng đã được triệu tập hợp lệ và có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Cao Thị Ng theo quy định của pháp luật.
Bị đơn anh Nguyễn Văn H đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Nguyễn Văn H theo quy định của pháp luật.
[2] Về hôn nhân: Chị Cao Thị Ng và anh Nguyễn Văn H kết hôn trên cơ sở tự do tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Yên Bái vào ngày 30-9-2019 là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chị chung sống hòa thuận hạnh phúc được một tháng thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng chung sống bất đồng quan điểm sống, tính tình vợ chồng không hòa hợp. Theo chị Cao Thị Ng thì anh chị đã sống ly thân từ tháng 10/2019 đến nay không còn quan tâm đến nhau. Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Yên Bái đã thông báo nhiều lần nhưng anh Nguyễn Văn H không đến Tòa, không có bản khai, như vậy anh Nguyễn Văn H đã tự từ bỏ quyền và cơ hội hàn gắn cuộc sống vợ chồng của bản thân. Dẫn đến hôn nhân giữa chị Cao Thị Ng và anh Nguyễn Văn H ngày càng trầm trọng, đời sống chung thực tế không còn tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, có căn cứ cho chị Cao Thị Ng được ly hôn anh Nguyễn Văn H theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
[3] Về con chung: Chưa có.
[4] Về tài sản và nợ chung: Chị Cao Thị Ng không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung, anh Nguyễn Văn H không có lời khai nên chưa có cơ sở xem xét. Vì vậy, Tòa án không đặt ra giải quyết quan hệ về tài sản và nợ chung.
Về án phí: Chị Cao Thị Ng phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn theo quy định của pháp luật.
[5] Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 57 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Cao Thị Ng được ly hôn anh Nguyễn Văn H.
2. Về án phí: Chị Cao Thị Ng phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm ly hôn, được khấu trừ vào 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0008729 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Yên Bái ngày 26-4-2021.
3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật
Bản án về ly hôn số 29/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 29/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trấn Yên - Yên Bái |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 05/08/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về