TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 27/2024/HNGĐ-ST NGÀY 27/02/2024 VỀ LY HÔN
Ngày 27 tháng 02 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 385/2023/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 11 năm 2023 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2024/QĐXX-ST ngày 18 tháng 01 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên toà số: 32/2024/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 02 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh La Hùng V, sinh năm 1994; (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt) Nơi cư trú: tổ 21, ấp V, xã V, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
2. Bị đơn: Chị Phạm Thị O, sinh năm 1988; (vắng mặt) Nơi cư trú: tổ 21, ấp V, xã V, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Nguyên đơn anh La Hùng V trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Phạm Thị O xây dựng hôn nhân trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, quen biết nhau, sống với nhau như vợ chồng năm 2012, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. Sau đó anh và chị O thuê nhà trọ sống và làm ăn ở Thành phố Hồ Chí Minh, đến năm 2019 thì vợ chồng về quê sống bên gia đình anh, sau khi hết dịch anh lên Bình Dương làm công nhân, chị O bỏ nhà đi sống với người khác. Nguyên nhân mâu thuẫn theo anh V trình bày do chị O có mối quan hệ bất chính, vợ chồng bất đồng quan điểm, không ai quan tâm, chăm sóc, lo lắng cho nhau. Đến khoảng giữa năm 2019 thì anh và chị O ly thân đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh yêu cầu ly hôn với chị O.
- Về quan hệ con chung: có một con chung tên là: La Quốc A, sinh ngày 23/9/2013. Hiện cháu An đang sống với chị O. Khi ly hôn anh đồng ý giao cháu An cho chị O nuôi dưỡng, anh không cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung và nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Toà án đã nhiều lần triệu tập bị đơn chị Phạm Thị O để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải, cũng như tham gia phiên toà nhưng chị O đều vắng mặt không có lý do, đồng thời cũng không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn. Toà án đã tiến hành các thủ tục xác minh, lấy lời khai bị đơn tại nơi cư trú nhưng chị O không có mặt ở nhà khi cán bộ Toà án đến, nên Toà án không lấy được lời khai của bị đơn, cũng như không lấy được nguyện vọng của cháu La Quốc A.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành phát biểu ý kiến:
+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, bị đơn chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng.
+ Về việc giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân: đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh La Hùng V. Về con chung: đề nghị giao cháu La Quốc A cho chị Phạm Thị O tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng, anh V không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị O không yêu cầu. Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết nên đề nghị không đặt ra xem xét.
Về án phí: anh V phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:
[1.1] Thẩm quyền giải quyết: bị đơn chị Phạm Thị O hiện có nơi cư trú tại: tổ 21, ấp V, xã V, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang, căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành.
[1.2] Quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn anh La Hùng V khởi kiện yêu cầu ly hôn với chị Phạm Thị O, căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thì đây là vụ án về tranh chấp ly hôn.
[1.3] Về sự vắng mặt của đương sự:
Ngày 06/02/2024, nguyên đơn anh La Hùng V có đơn đề nghị xét xử vắng mặt được Hội đồng xét xử chấp nhận. Bị đơn chị Phạm Thị O đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không lý do, căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt đối với các đương sự.
[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh La Hùng V thấy: [2.1] Về quan hệ hôn nhân:
Theo nguyên đơn anh V trình bày thì anh và bị đơn chị Phạm Thị O do tìm hiểu, quen biết mới tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo anh V trình bày do chị O có mối quan hệ bất chính, vợ chồng bất đồng quan điểm, không ai quan tâm, chăm sóc, lo lắng cho nhau.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã nhiều lần mở phiên hoà giải nhằm tạo điều kiện để anh V và chị O hàn gắn tình cảm, nhưng anh V vẫn kiên quyết ly hôn, chị O được Toà án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không lý do, cũng như không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, điều này chứng tỏ chị O không có nguyện vọng đoàn tụ với anh V. Anh V và chị O đã ly thân từ giữa năm 2019 đến nay, nhưng anh và chị vẫn không hàn gắn tình cảm lại được.
Tất cả điều này cho thấy hôn nhân của anh V và chị O đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh V.
[2.2] Về quan hệ con chung: Anh V và chị O có một con chung tên: La Quốc A, sinh ngày 23/9/2013. Hiện cháu A đang sống với chị O. Xét thấy, từ khi ly thân đến nay cháu Quốc A đã sống ổn định với chị O, anh V cũng đồng ý giao cháu Quốc A cho chị O tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng. Do đó, để đảm bảo cuộc sống của cháu được ổn định, không bị xáo trộn sau khi cha mẹ ly hôn nên căn cứ quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử giao cháu Quốc A cho chị O tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng. Chị O phải tạo điều kiện thuận lợi cho anh V được quyền tới lui thăm nom, chăm sóc cháu Quốc A, không ai cản trở khi anh V thực hiện quyền này.
Về cấp dưỡng: Chị O không có ý kiến yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi cháu Quốc A nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: theo anh V trình bày anh và chị O không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Trường hợp sau này có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết bằng một vụ án khác.
[3] Về án phí: Anh V phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí số 0004288 ngày 21/11/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238, khoản 4 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình;
Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh La Hùng V.
1. Về quan hệ hôn nhân: Anh La Hùng V được ly hôn với chị Phạm Thị O.
2. Về quan hệ con chung: có một con chung: La Quốc A, sinh ngày 23/9/2013. Chị Phạm Thị O được quyền tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu La Quốc A.
Về cấp dưỡng: Anh La Hùng V không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị Phạm Thị O không yêu cầu.
Chị O cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở anh V thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu La Quốc A.
Nếu người không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người còn lại thì người còn lại có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Vì lợi ích của con chung, theo yêu cầu của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng dựa trên các quy định của pháp luật.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết. Trường hợp sau này có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết bằng một vụ án khác.
4. Về án phí: Anh La Hùng V phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí số 0004288 ngày 21/11/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
5. Về quyền kháng cáo: Anh La Hùng V và chị Phạm Thị O được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn số 27/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 27/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về