Bản án về ly hôn số 269/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 269/2022/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2022 VỀ LY HÔN

Trong các ngày 15 tháng 8 năm 2022 và 31 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án thành phố S, TAND thành phố S tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 177/2022/TLST-HNGĐ, ngày 06 tháng 4 năm 2022 về ly hôn theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2022/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 10/2022/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn Q. Địa chỉ: Tổ Z, phường C, thành phố S, tỉnh S. Có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Chị Lê Cẩm V. Địa chỉ: Tổ Z, phường C, thành phố S, tỉnh S. Vắng mặt không lý do lần thứ 2.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong các tài liệu trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn anh Nguyễn Văn Q trình bày như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Văn Q và chị Lê Cẩm V đã đăng ký kết hôn ngày 31/5/2018 tại Uỷ ban nhân dân phường C, thành phố S, tỉnh S. Kết hôn do hai bên tự nguyện, không bị ai ép buộc. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng sống cùng bố mẹ chồng tại tổ Z, phường C, thành phố S, tỉnh S. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu do anh Q phải đi chấp hành án một thời gian dài ở trại giam Yên Hạ, huyện Phù Yên, tỉnh S trong khoảng thời gian từ năm 2020 đến năm 2021, không ở nhà để quan tâm chăm sóc gia đình được nên chị Vân bỏ đi. Thỉnh thoảng chị Vân có về nhà đột xuất nhưng lại đi đâu không ai biết, gia đình không thể liên lạc với chị được. Bố đẻ của chị Vân đã chết, mẹ đẻ của chị hiện đã lập gia đình mới ở tỉnh Thái Bình, anh Q không biết địa chỉ cụ thể và số điện thoại liên hệ. Anh Q xác định không còn tình cảm vợ chồng với chị Vân nữa, đến nay mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, anh Q đề nghị Tòa án giải quyết cho anh ly hôn với chị Lê Cẩm V.

Về con chung: Trong quá trình chung sống, anh chị có 01 con chung Nguyễn Hải N, sinh ngày 04/11/2018 đang sống cùng bố và ông bà nội tại tổ Z, phường C, thành phố S, tỉnh S. Nay ly hôn, anh Q có nguyện vọng trực tiếp nuôi cháu N do chị Vân đã bỏ đi, không có điều kiện chăm sóc cháu. Anh Q không yêu cầu chị Vân phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không có.

Về tài sản riêng: Không có.

Về nợ chung: Không có.

Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo, triệu tập bị đơn chị Lê Cẩm V đến để giải quyết việc anh Nguyễn Văn Q đề nghị ly hôn nhưng chị Vân đều không có mặt. Qua xác minh tại địa phương thì hiện nay chị V vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú tại tổ Z, phường C, thành phố S, tỉnh S. Theo lời khai của ông Nguyễn Văn P (bố đẻ của anh Q), anh chị có được tìm hiểu, tự nguyện đến với nhau, được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi và đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn, vợ chồng anh chị chung sống với gia đình nhà chồng tại tổ Z, phường C, thành phố S, tỉnh S. Cuộc sống chung thời gian đầu hòa thuận hạnh phúc nhưng từ khi anh Q đi chấp hành án tại trại giam Yên Hạ, huyện Phù Yên từ năm 2020 thì chị V bỏ nhà đi đâu không ai biết, không thể liên hệ được, thỉnh thoảng chị có về thăm nhà nhưng lại bỏ đi luôn. Nay mỗi người ở một nơi không trực tiếp chung sống cùng nhau nên tình cảm vợ chồng không còn, chị Vân cũng không quan tâm chăm sóc, không gọi điện hỏi thăm chồng con. Về địa chỉ cụ thể của chị Vân thì gia đình không biết do chị không thông báo địa chỉ nơi ở, nơi làm việc nên gia đình không biết. Sau khi nhận các văn bản, thông báo của Tòa án, gia đình có gọi điện cho chị V nhưng không được, khi chị về gia đình cũng thông báo Tòa án gửi giấy tiệu tập chị nhưng chị không hợp tác. Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng của Tòa án tại tổ, phường và trụ sở Tòa án nhân dân thành phố S nhưng chị Vân vẫn không đến Tòa án làm việc.

Về con chung của anh chị, ông Nguyễn Văn P có ý kiến như sau: Anh chị có 01 con chung Nguyễn Hải N, sinh ngày 04/11/2018 sống cùng bố và ông bà nội tại tổ Z, phường C, thành phố S, tỉnh S từ nhỏ đến nay. Từ lúc anh Q đi chấp hành án, chị Vân bỏ đi, ông bà nội là người chăm sóc, nuôi dưỡng cháu, nay anh Q đã chấp hành án xong, để đảm bảo quyền lợi của cháu, ông có nguyện vọng để anh Q tiếp tục nuôi cháu đến khi đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.

Qua xác minh tại chính quyền tổ Z, phường C, thành phố S, tỉnh S, xác định chị V đã bỏ đi một thời gian dài, không có mặt tại địa phương, thỉnh thoảng có về nhưng lại đi ngay, không ai biết địa chỉ, số điện thoại liên lạc của chị. Ông Nguyễn Ngọc A - tổ trưởng tổ Z cho biết anh chị đã ly thân từ lâu, hiện nay không còn quan tâm, thăm hỏi nhau nữa, nay anh Q có đơn xin ly hôn, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố S, tỉnh S phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án đều đảm bảo đúng quy định. Riêng bị đơn chưa thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ đại diện Viện kiểm sát đề nghị: Áp dụng các Điều 51, 53, khoản 1 Điều 56, Điều 57, 81, 82, 83, 110 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, các Điều 143, 144, 147, 227, 228, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về “Ly hôn” của anh Nguyễn Văn Q, cho anh Nguyễn Văn Q được ly hôn với chị Lê Cẩm V.

2. Về con chung: Anh chị có 01 con chung Nguyễn Hải N, sinh ngày 04/11/2018 đang sống cùng bố và ông bà nội tại tổ Z, phường C, thành phố S, tỉnh S. Chị Vân đã bỏ đi, đề nghị giao con cho anh Q trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi cháu đủ 18 tuổi và có khả năng lao động. Chị Vân không phải cấp dưỡng nuôi con do anh Q không yêu cầu.

3. Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

4. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

5. Về án phí và quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Văn Q phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (trong vụ án ly hôn) theo quy định. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền: Anh Nguyễn Văn Q khởi kiện yêu cầu ly hôn và giải quyết về con chung với chị Lê Cẩm V tại Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh S. Bị đơn chị Lê Cẩm V có hộ khẩu thường trú tại tổ Z, phường C, thành phố S, tỉnh S. Căn cứ Điều 28, điểm a khoản 1 Điểu 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì đây là vụ án hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nên Tòa án nhân dân thành phố S thụ lý giải quyết là đúng pháp luật.

Quá trình xác minh tại địa phương cho thấy, chị V có hộ khẩu thường trú tại tại tổ Z, phường C, thành phố S, tỉnh S. Chị V bỏ đi làm ăn xa nhưng không thông báo địa chỉ mới nên hiện tại không rõ đang ở đâu, làm gì. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thông báo, triệu tập, gia đình, chính quyền tổ đã thông báo cho chị nhưng chị vẫn không đến Tòa án giải quyết và cũng không thông báo địa chỉ nơi ở và nơi làm việc, đây được xem là trường hợp người bị kiện cố tình che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ, nên Tòa án vẫn giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ; thực hiện các thủ tục niêm yết, tống đạt văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật, tuy nhiên bị đơn chị Vân vẫn vắng mặt lần thứ hai. Do vậy, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại các Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về việc xem xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Văn Q, chị Lê Cẩm V có đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật Hôn nhân và gia đình; có đăng ký kết hôn ngày 31/5/2018 tại Uỷ ban nhân dân phường C, thành phố S, tỉnh S nên được xác định là hôn nhân hợp pháp. Theo quan điểm của anh Q, vợ chồng anh chị chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2020 thì mâu thuẫn do anh Q phải đi chấp hành án, chị V bỏ nhà đi từ đó đến nay. Hai vợ chồng sống ly thân, hiện không còn quan tâm, thăm hỏi nhau nữa. Hội đồng xét xử thấy rằng, thực tế cuộc sống chung của vợ chồng anh chị đã không tồn tại từ năm 2020; cả hai đều đã không còn quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình nên không thể tồn tại một gia đình hạnh phúc, tiến bộ, mục đích hôn nhân không đạt được. Như vậy, căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho anh Q được ly hôn với chị V.

[2.2] Về con chung: Anh chị có 01 con chung Nguyễn Hải N, sinh ngày 04/11/2018 đang sống cùng bố và ông bà nội tại tổ Z, phường C, thành phố S, tỉnh S. Anh Q có nguyện vọng trực tiếp nuôi con, không yêu cầu chị Vân cấp dưỡng; nay chị V đã bỏ đi, không thể chăm sóc, nuôi dạy con, nên xét thấy cần chấp nhận yêu cầu của anh Q: Giao con cho anh Q trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi cháu đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.

[2.3] Về tài sản chung: Không có, không đề nghị giải quyết, do vậy Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[2.4] Về nợ chung: Không có, không đề nghị Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí và quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Văn Q phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, các Điều 143, 144, 147, 227, 228, 235, 266, 271, 272, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, các Điều 56, 57, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Văn Q được ly hôn với chị Lê Cẩm V.

- Về con chung: Giao con chung Nguyễn Hải N, sinh ngày 04/11/2018 cho anh Nguyễn Văn Q trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.

Chị Lê Cẩm V không phải cấp dưỡng nuôi con do anh Nguyễn Văn Q không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về án phí: Anh Nguyễn Văn Q phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn là 300.000 đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0000372, ngày 06 tháng 4 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố S, tỉnh S.

- Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn anh Nguyễn Văn Q có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn chị Lê Cẩm V có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thị hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 Điều 9 Luật thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 269/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:269/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:31/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về