TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 26/2024/HNGĐ-ST NGÀY 19/02/2024 VỀ LY HÔN
Ngày 19 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 632/2023/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 12 năm 2023 về Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 01 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Trương Tuấn K, sinh năm: 1983 (có mặt);
Địa chỉ: Tổ A, ấp V, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương.
2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Tuyết N, sinh năm: 1989 (vắng mặt); Nơi ĐKHKTT: Tổ A, ấp V, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương; Nơi tạm trú: Số nhà A, ấp L, xã T1, huyện C, tỉnh Long An.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện đề ngày 30/11/2023, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn ông Trương Tuấn K trình bày:
Về hôn nhân: ông K và bà N tổ chức lễ cưới vào năm 2013, có thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 33, quyển số 01/2012, ngày 22/5/2013. Sau khi cưới, vợ chồng chung sống hạnh phúc khoảng gần 03 năm thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không hợp nhau. Mỗi khi xảy ra mâu thuẫn thì bà N thường bỏ về nhà mẹ ruột ở ấp L, xã T1, huyện C, tỉnh Long An. Bà N đã bỏ về nhà mẹ ruột 03 lần nhưng sau đó vợ chồng hàn gắn nên bà N quay về và vợ chồng sống chung. Tuy nhiên từ ngày 29/7/2023 thì bà N lại bỏ về nhà mẹ ruột sinh sống cho đến nay. Vợ chồng cũng đã cố gắng hàn gắn mâu thuẫn nhưng không có kết quả. Nay xét thấy tình trạng mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt nên ông Trương Tuấn K yêu cầu ly hôn với bà Nguyễn Thị Tuyết N.
Về nuôi con chung: vợ chồng có 02 con chung tên Trương Gia B, sinh ngày 04/02/2014 và Trương Thị Mỹ D, sinh ngày 23/3/2019. Hiện cháu B đang sống với ông K còn cháu D đang sống với bà N. Khi ly hôn, ông K yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu B, bà N tiếp tục nuôi cháu D; ông K và bà N không phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: không có.
- Đối với bị đơn bà Nguyễn Thị Tuyết N, sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn bà Nguyễn Thị Tuyết N. Bà N không có ý kiến phản hồi về yêu cầu của ông K, không nộp tài liệu, chứng cứ và cũng không đến Tòa án tham gia giải quyết vụ án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C phát biểu:
Về tố tụng: thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định tại các Điều 35, 39, 68, 97, 98, 195, 196, 208 của Bộ luật tố tụng dân sự về thụ lý vụ việc; xác minh thu thập tài liệu, chứng cứ; việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ. Hội đồng xét xử, thư ký tại phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án. Người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.
Về nội dung:
Về hôn nhân: căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Trương Tuấn K. Ông Trương Tuấn K được ly hôn với bà Nguyễn Thị Tuyết N.
Về nuôi con chung: ông Trương Tuấn K được tiếp tục nuôi con chung tên Trương Gia B, sinh ngày 04/02/2014; bà Nguyễn Thị Tuyết N được tiếp tục nuôi con chung tên Trương Thị Mỹ D, sinh ngày 23/3/2019. Ông K và bà N không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.
Về tài sản chung, nợ chung: không có nên không xem xét.
Về án phí: nguyên đơn ông Trương Tuấn K phải chịu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định.
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Ông Trương Tuấn K khởi kiện yêu cầu ly hôn với bà Nguyễn Thị Tuyết N, bà N hiện đang cư trú tại xã T1, huyện C, tỉnh Long An nên Tòa án nhân dân huyện C thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2] Bị đơn bà Nguyễn Thị Tuyết N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án xét xử vụ án vắng mặt bà N theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung tranh chấp:
[2.1] Về hôn nhân: ông Trương Tuấn K và bà Nguyễn Thị Tuyết N tổ chức lễ cưới vào năm 2013, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương cấp giấy chứng nhận kết hôn số 33, quyển số 01/2012, ngày 22/5/2013 nên xác định hôn nhân giữa ông K và bà N là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Ông K trình bày, sau khi cưới, vợ chồng chung sống hạnh phúc khoảng gần 03 năm thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không hợp nhau. Mỗi khi xảy ra mâu thuẫn thì bà N thường bỏ về nhà mẹ ruột ở ấp L, xã T1, huyện C, tỉnh Long An. Bà N đã bỏ về nhà mẹ ruột 03 lần nhưng sau đó vợ chồng hàn gắn nên bà N quay về và vợ chồng sống chung. Tuy nhiên từ ngày 29/7/2023 thì bà N lại bỏ về nhà mẹ ruột sinh sống cho đến nay. Vợ chồng cũng đã cố gắng hàn gắn mâu thuẫn nhưng không có kết quả. Đối với bà N, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bà N nhưng bà N không có ý kiến phản hồi và cũng không đến Tòa án tham gia giải quyết vụ án. Điều này chứng tỏ bà N không có thiện chí hàn gắn tình cảm với ông K. Tại phiên tòa, ông K vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn với bà N. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa ông K và bà N đã đến mức trầm trọng, không thể hàn gắn, đời sống chung vợ chồng không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông K đối với bà N.
[2.2] Về nuôi con chung: ông K và bà N chung sống có 02 con chung tên Trương Gia B, sinh ngày 04/02/2014 và Trương Thị Mỹ D, sinh ngày 23/3/2019. Ông K yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu B, bà N tiếp tục nuôi cháu D, không ai phải cấp dưỡng nuôi con. Bà N không có ý kiến phản hồi về vấn đề này. Hội đồng xét xử xét thấy, đối với con chung tên Trương Gia B hiện nay đang sống chung với ông K và cháu B có nguyện vọng được sống chung với ông K. Điều này phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông K, giao con chung tên Trương Gia B cho ông K tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng; đối với con chung tên Trương Thị Mỹ D hiện nay đang sống chung với bà N, cuộc sống đã ổn định nên giao con chung tên Trương Thị Mỹ D cho bà N tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp. Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Ông K và bà N không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: ông K xác định không có tài sản chung và nợ chung; bà N không có ý kiến phản hồi về vấn đề này nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[2.4] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên chấp nhận.
[2.5] Về án phí: ông K phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Điều 85 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trương Tuấn K về việc yêu cầu ly hôn đối với bị đơn bà Nguyễn Thị Tuyết N.
1. Về hôn nhân: ông Trương Tuấn K được ly hôn với bà Nguyễn Thị Tuyết N.
2. Về nuôi con chung: ông Trương Tuấn K được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Trương Gia B, sinh ngày 04/02/2014; bà Nguyễn Thị Tuyết N được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Trương Thị Mỹ D, sinh ngày 23/3/2019. Ông K và bà N không phải cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn, cha mẹ có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên.
Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.
3. Về án phí: ông Trương Tuấn K phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí ông K đã nộp theo biên lai thu số 0002738 ngày 30 tháng 11 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, ông K đã nộp đủ.
4. Về quyền kháng cáo bản án sơ thẩm: đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn số 26/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 26/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cần Giuộc - Long An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 19/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về