Bản án về ly hôn số 261/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 261/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/07/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 15 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 147/2022/TLST- HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2022 về việc Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2022/QĐXX-ST ngày 22/6/2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 31/QĐST-HPT ngày 08/7/2022 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Vũ Thanh H, sinh năm 1996 HKTT: Số 25 ngõ Văn Chương, phường Văn Chương, quận Đ1, Hà Nội. Có mặt

* Bị đơn: Anh Nguyễn Thành Đ, sinh năm 1996 HKTT: Số 36 ngõ ** phố H, phường N, Ba Đình, Hà Nội.

Nơi ở: Phòng **, tòa A, chung cư A, số ** Phạm Văn Đồng, phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và bản tự khai, nguyên đơn chị Vũ Thanh H trình bày:

- Về tình cảm: Chị và anh Nguyễn Thành Đ kết hôn ngày 07/8/2018 có đăng ký kết hôn tại UBND phường Ngọc Hà, Ba Đình, Hà Nội trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn anh chị chung sống cùng gia đình anh Đ tại số 36 ngõ 173 Hoàng Hoa Thám, phường N, Ba Đình, Hà Nội. Đến tháng 12/2019 cả gia đình chuyển về sinh sống tại phòng 1106, tòa A6, chung cư A, 232 Phạm Văn Đồng, phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Cuộc sống chung sau khi kết hôn hạnh phúc được khoảng 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, tính cách, cách nuôi dạy con, anh Đ không có công việc làm ổn định, thường tụ tập chơi cờ bạc ảnh hưởng đến kinh tế trong gia đình. Tháng 02 năm 2019 anh Đ bị công an bắt về hành vi Đánh bạc, đến tháng 01/2020 bị TAND thành phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Đánh bạc. Vì anh Đ ham chơi cờ bạc và lấy đồ đạc trong nhà đem đi bán dẫn đến việc hai vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn cãi vã không thể nói chuyện được với nhau. Khi mâu thuẫn căng thẳng anh Đ có đánh chị dẫn đến vợ chồng không còn tình cảm, cuộc sống chung vợ chồng không có hạnh phúc rất căng thẳng, mệt mỏi. Mâu thuẫn căng thẳng kéo dài đến tháng 11 năm 2021 chị đã chuyển đi nơi khác sống, vợ chồng ly thân từ thời gian đó cho đến nay. Sau khi xảy ra mâu thuẫn vợ chồng chị đã tự hòa giải và được gia đình hai bên hòa giải nhưng không có kết quả. Vợ chồng không còn tình cảm, không còn quan tâm đến nhau nữa nên chị quyết định ly hôn. Khi chị làm đơn ly hôn anh Đ có biết, Tòa án và đại diện chính quyền địa phương cũng đến nhà giao các văn bản tố tụng của Tòa án, anh Đ nhận văn bản nhưng không ký nhận vào các biên bản giao nhận, không đến Tòa án để giải quyết ly hôn. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn không thể hòa giải được, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đ.

- Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Nguyễn Đức A1, sinh ngày 12/10/2017. Chị đồng ý để anh Đ nuôi con chung và tự nguyện đóng góp nuôi con là 2.000.000 đồng/tháng.

- Về tài sản chung, nhà ở, nợ chung: Không có gì chung, không đề nghị Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Thành Đ đã được triệu tập hợp lệ, được tống đạt các văn bản tố tụng của vụ án nhưng không có mặt theo triệu tập. Tòa án đã đến nơi cư trú của anh Đ để tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án và lấy lời khai, anh Đ khai nhưng không ký xác nhận lời khai của mình. Anh Đ khai:

- Về thời điểm kết hôn, điều kiện kết hôn như chị H trình bày là đúng, nguyên nhân chính dẫn đến việc ly hôn là do bất đồng quan điểm sống, tính cách. Khi xảy ra mâu thuẫn anh cũng đã phân tích hòa giải, khuyên bảo chị H để giải quyết mâu thuẫn nhưng không có kết quả. Từ tháng 11/2021 chị H đã chuyển đi chỗ khác ở, vợ chồng ly thân không còn chung sống với nhau từ thời gian đó cho đến nay. Việc chị H xin ly hôn với anh, anh đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Về con chung: Anh và chị H có 01 con chung là Nguyễn Đức A1, sinh ngày 12/10/2017, anh xin được nuôi cháu Đức A1 và không yêu cầu chị H đóng góp nuôi con.

- Về tài sản chung, nhà ở, nợ chung: Không có.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn chị Vũ Thanh H trình bày: Chị vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn anh Nguyễn Thành Đ. Chị đồng ý để anh Đ nuôi cháu Đức A1 và tự nguyện đóng góp tiền nuôi con là 2.000.000 đồng/tháng kể từ tháng 8/2022. Về tài sản chung, nhà ở, nợ chung: Không có, không đề nghị Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Thành Đ đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán: Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án tại phiên tòa: HĐXX đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật TTDS về phiên tòa sơ thẩm. Các quy định về phiên tòa, thủ tục bắt đầu phiên tòa, tranh tụng đều được HĐXX thực hiện theo đúng quy định tại Chương 14 BLTTDS.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, 71, 234 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, đã từ chối các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX xem xét chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Vũ Thanh H đối với anh Nguyễn Thành Đ.

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Đức A1, sinh ngày 12/10/2017 cho anh Đ trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, chị H đóng góp nuôi con là 2.000.000 đồng/tháng kể từ tháng 8/2022.

Về tài sản chung, nhà ở, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét. Về án phí : Chị H phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Vũ Thanh H và anh Nguyễn Thành Đ kết hôn ngày 07/8/2018 có đăng ký kết hôn tại UBND phường Ngọc Hà, Ba Đình, Hà Nội trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Đến tháng 12/2019 anh chị chuyển về chung sống tại phòng 1106, tòa A6, chung cư A, 232 Phạm Văn Đồng, phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Đến tháng 11/2021 chị H đã chuyển đi nơi khác ở, còn anh Đ vẫn sinh sống tại chung cư A, 232 Phạm Văn Đồng, phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Vì vậy yêu cầu của chị H thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội theo quy định tại điều 28; điểm a khoản 1 điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự Anh Nguyễn Thành Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, được tống đạt các văn bản tố tụng của vụ án nhưng không có mặt theo triệu tập. Tòa án đã tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa cho anh Đ nhưng anh Đ vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Sau khi thảo luận Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt anh Đ

[2] Về nội dung: Căn cứ lời khai của các đương sự và kết quả xác minh cho thấy: Sau khi kết hôn anh chị chung sống tại số 36 ngõ 173 Hoàng Hoa Thám, phường N, Ba Đình, Hà Nội. Đến tháng 12/2019 anh chị chuyển về chung sống tại phòng 1106, tòa A6, chung cư A, 232 Phạm Văn Đồng, phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Cuộc sống chung hạnh phúc được khoảng 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, tính cách, cách nuôi dạy con, anh Đ ham chơi cờ bạc ảnh hưởng đến kinh tế trong gia đình. Tháng 01 năm 2020 anh Đ bị TAND thành phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Đánh bạc. Do mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng nên đến tháng 11/2021 chị H đã chuyển đi nơi khác ở và anh chị sống ly thân từ thời gian đó cho đến nay, Chị H, anh Đ không cùng nhau xây dựng cuộc sống chung, mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn nên mục đích hôn nhân không đạt được. Việc chị H xin ly hôn anh Đ là có căn cứ theo quy định tại điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Nguyễn Đức A1 (nam), sinh ngày 12/10/2017. Anh Đ xin được nuôi cháu Đức A1, chị H đồng ý để anh Đ nuôi con nên giao cháu Đức A1 cho anh Đ trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, chị H đóng góp nuôi con là 2.000.000 đồng/tháng kể từ tháng 8/2022 cho đến khi con chung trưởng thành tròn 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác. Chị H có quyền đi lại thăm nom chăm sóc con chung không ai được ngăn cản.

Về tài sản chung, nhà ở, nợ chung: Không có, không đề nghị Tòa án giải quyết nên không xét.

Về án phí: Chị Vũ Thanh H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình;

- Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Khoản 4 Điều 147; Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Vũ Thanh H. Chị Vũ Thanh H được ly hôn anh Nguyễn Thành Đ.

2. Về con chung: Giao 01 con chung là Nguyễn Đức A1 (nam), sinh ngày 12/10/2017 cho anh Đ trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, chị H đóng góp nuôi con là 2.000.000 đồng/tháng kể từ tháng 8/2022 cho đến khi con chung trưởng thành tròn 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác. Chị H có quyền đi lại thăm nom chăm sóc con chung không ai được ngăn cản.

3. Về tài sản chung, nhà ở, nợ chung: Không có, không đề nghị Tòa án giải quyết nên không xem xét.

4. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Vũ Thanh H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị H đã nộp theo biên lai số AA/2020/043098 ngày 06/5/2022. Chị H đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Vũ Thanh H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Thành Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 261/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:261/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về