Bản án về ly hôn số 251/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 251/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/07/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 08 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình sơ thẩm thụ lý số 159/2022/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 5 năm 2022 về việc Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2022/QĐXX- ST ngày 22/6/2022 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Phạm Thị N, sinh năm 1986 HKTT: Tổ 12 phường D, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội.

Có mặt tại phiên tòa.

* Bị đơn: Anh Trần Quang S, sinh năm 1990 HKTT và ở: Tổ 12 phường D, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội.

Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải, nguyên đơn chị Phạm Thị N trình bày:

- Về tình cảm: Chị và anh Trần Quang S kết hôn trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn ngày 15/9/2010 tại UBND xã Phú Diễn, huyện Từ Liêm (nay là phường D, Bắc Từ Liêm), Hà Nội trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn anh chị chung sống cùng gia đình anh S tại phường D, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Cuộc sống chung hạnh phúc được khoảng mấy năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, tính cách, cách nuôi dậy con, kinh tế trong gia đình. Đến năm 2017 anh S bắt đầu sử dụng ma túy, đã nhiều lần tự cai nghiện ở nhà nhưng không có kết quả dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, xô xát. Đến tháng 12/2020 anh S bị Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm ra quyết định đưa đi cai nghiện bắt buộc 15 tháng tại Cơ sở cai nghiện ma túy số 2. Đến tháng 3/2022 anh S đi cai nghiện về, từ khi anh S đi cai nghiện về vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và hầu như ngày nào anh S cũng đánh đập chị. Mâu thuẫn căng thẳng kéo dài đến tháng 4 năm 2022 do không thể tiếp tục chịu đựng được nữa nên chị và cháu Tr đã chuyển đi nơi khác sống, vợ chồng ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Sau khi xảy ra mâu thuẫn anh chị đã tự hòa giải và được gia đình hai bên hòa giải nhưng không có kết quả. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn kéo dài đã lâu không thể hòa giải được, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh S.

- Về con chung: Chị và anh S có 01 con chung là Trần Phạm Huyền Tr (nữ), sinh ngày 20/4/2011. Chị xin được nuôi con vì cháu Tr là con gái, từ nhỏ đến nay đều do chị chăm sóc nuôi dưỡng và cháu có nguyện vọng được ở với chị, chị không yêu cầu anh S đóng góp tiền nuôi con. Hiện chị đang làm nghề cắt tóc, thu nhập khoảng 7.000.000 đồng/tháng.

- Về tài sản chung, nhà ở, nợ chung: Không có gì chung, không đề nghị Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Trần Quang S trình bày - Về thời điểm kết hôn, điều kiện kết hôn như chị N trình bày là đúng. Sau khi kết hôn anh chị chung sống bình thường, thỉnh thoảng có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, tính cách. Tháng 12 năm 2020 anh bị đi cai nghiện bắt buộc 15 tháng, đến tháng 3 năm 2022 được về. Từ khi anh đi cai nghiện về vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn cãi vã nhau và tháng 4/2022 chị N đã bỏ nhà đi đem theo con chung, vợ chồng ly thân từ thời gian đó cho đến nay. Anh xác định anh vẫn còn tình cảm với chị N, anh không muốn ý ly hôn, trường hợp chị N cương quyết ly hôn anh cũng đồng ý.

- Về con chung : Anh và chị N có 01 con chung là Trần Phạm Huyền Tr (nữ), sinh ngày 20/4/2011. Hiện cháu đang ở với chị N, anh xin được nuôi con chung và không yêu cầu chị N đóng góp nuôi con. Hiện anh làm xây dựng, thu nhập khoảng 7.000.000 đồng/tháng.

- Về tài sản chung, nhà ở, nợ chung: Không có, không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa:

* Nguyên đơn chị Phạm Thị N trình bày: Chị vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn anh Trần Quang S. Chị xin được nuôi con chung và không yêu cầu anh S đóng góp nuôi con. Về tài sản chung, nhà ở, nợ chung: Không có, không đề nghị Tòa án giải quyết.

* Bị đơn anh Trần Quang S trình bày: Anh đồng ý ly hôn với chị N. Anh xin được nuôi con chung là Trần Phạm Huyền Tr, sinh ngày 20/4/2011 và không yêu cầu chị N đóng góp nuôi con. Về tài sản chung, nhà ở, nợ chung: Không có, không đề nghị Tòa án giải quyết.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán: Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án tại phiên tòa: HĐXX đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật TTDS về phiên tòa sơ thẩm. Các quy định về phiên tòa, thủ tục bắt đầu phiên tòa, tranh tụng đều được HĐXX thực hiện theo đúng quy định tại Chương 14 BLTTDS.

- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, 71, 72, 234 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX xem xét chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Phạm Thị N đối với anh Trần Quang S. Về con chung: Giao 01 con chung là Trần Phạm Huyền Tr (nữ), sinh ngày 20/4/2011 cho chị N trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, tạm hoãn đóng góp nuôi con đối với anh S cho đến khi chị N có yêu cầu hoặc có sự thay đổi khác. Về tài sản chung, nhà ở, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét. Về án phí : chị Phạm Thị N phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Phạm Thị N và anh Trần Quang S kết hôn ngày 15/9/2010 có đăng ký kết hôn tại UBND xã Phú Diễn, huyện Từ Liêm (nay là phường D, quận Bắc Từ Liêm), Hà Nội trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn anh chị chung sống cùng gia đình anh S tại tổ 12 phường D, Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Anh S có đăng ký hộ khẩu và hiện đang ăn ở sinh sống tại tổ 12 phường D, Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Vì vậy yêu cầu của chị N thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội theo quy định tại điều 28; điểm a khoản 1 điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự

[2] Về nội dung: Căn cứ lời khai của các đương sự và kết quả xác minh đại diện gia đình, tổ dân phố cho thấy: Sau khi kết hôn anh S, chị N chung sống tại tổ 12 phường D, Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Cuộc sống chung hạnh phúc được khoảng mấy năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là bất đồng quan điểm, tính cách, do anh S nghiện ma túy và thường đánh đập chị N. Do mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng nên đến tháng 4/2022, chị N đã chuyển đi nơi khác ở và anh chị sống ly thân từ thời gian đó cho đến nay, không cùng nhau xây dựng cuộc sống chung, mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng nên mục đích hôn nhân không đạt được. Việc chị N xin ly hôn anh S là có căn cứ theo quy định tại điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận.

- Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Trần Phạm Huyền Tr (nữ), sinh ngày 20/4/2011. Xét thấy anh S và chị N đều có nguyện vọng được nuôi con chung nhưng do cháu Tr là con gái đang ở độ tuổi phát triển tâm sinh lý, hiện cháu đang được chị N trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và cháu có nguyện vọng được ở với chị N, nên cần giao cháu Tr cho chị N tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của chị N không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con. Anh S có quyền đi lại thăm nom chăm sóc con chung không ai được ngăn cản.

- Về tài sản chung, nhà ở, nợ chung: Không có, không đề nghị Tòa án giải quyết nên không xét.

- Về án phí: Chị Phạm Thị N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điều 56, 58, 81, 82,83 Luật hôn nhân gia đình;

- Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Phạm Thị N. Chị Phạm Thị N được ly hôn anh Trần Quang S.

2. Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Trần Phạm Huyền Tr (nữ), sinh ngày 20/4/2011. Giao cháu Tr cho chị N trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với anh S cho đến khi chị N có yêu cầu hoặc có sự thay đổi khác.

Anh Trần Quang S có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được ngăn cản.

3. Về tài sản chung, nhà ở, nợ chung: Không có, không đề nghị Tòa án giải quyết nên không xem xét.

4. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Phạm Thị N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị đã nộp theo biên lai số AA/2020/043119 ngày 17/5/2022. Chị N đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

135
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 251/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:251/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về