Bản án về ly hôn số 249/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 249/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/05/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 28 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 69/2021/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 02 năm 2021 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2021/QĐXXST – HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 13/2021/QĐST – HNGĐ ngày 20 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trương Thị X, sinh năm 1986; Địa chỉ đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 155 đường Th, phường L, thành phố N, tỉnh Nam Định.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn TA, sinh năm 1986; Địa chỉ đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 155 đường Th, phường L, thành phố N, tỉnh Nam Định.

(Tại phiên tòa chị X có mặt, anh TA vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Tại đơn khởi kiện ngày 26-01-2021, bản tự khai ngày 02-3-2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Trương Thị X trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn TA tìm hiểu tự nguyện và được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán vào tháng 4-2014 nhưng đến tháng 9-2014 mới đăng ký kết hôn tại UBND phường Lộc Hạ, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống bình thường đến đầu năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do cuộc sống chung nảy sinh nhiều bất đồng, hai bên không hòa hợp về lối sống, tính cách nên xảy ra xung đột cãi nhau. Do không giải quyết được mâu thuẫn nên tháng 7-2019 chị đã làm đơn xin ly hôn với anh TA tại Tòa án nhân dân thành phố Nam Định sau đó chị đã rút đơn khởi kiện để vợ chồng đoàn tụ nhưng vẫn không có kết quả, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Hiện nay vợ chồng đã sống ly thân mỗi người một nơi không quan tâm tới nhau nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn đoàn tụ được nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Nguyễn TA.

- Về con chung: Anh chị có 02 con chung là Nguyễn Tuấn Ph, sinh ngày 01- 12-2014 và Nguyễn Quỳnh T, sinh ngày 10-9-2018. Từ khi vợ chồng sống ly thân, chị nuôi cháu Nguyễn Quỳnh T, con anh Nguyễn TA nuôi cháu Nguyễn Tuấn Ph. Nay chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Quỳnh T còn anh Nguyễn TA sẽ trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Tuấn Ph và hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung và công nợ chung: chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh Nguyễn TA không đến làm việc nên không có lời khai tại tòa án.

3. Tại đơn đề nghị chính quyền địa phương nơi chị Trương Thị X và anh Nguyễn TA cư trú xác nhận: Chị X và anh TA đăng ký kết hôn tại UBND phường Lộc Hạ, thành phố Nam Định vào năm 2014. Quá trình chung sống anh chị phát sinh mâu thuẫn do không hòa hợp, bất đồng quan điểm, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống nên vợ chồng xảy ra cãi nhau. Anh chị đã cố gắng khắc phục giải quyết mâu thuẫn nhưng không có kết quả nên đã ly thân không quan tâm tới nhau. Anh chị có 02 con chung là Nguyễn Tuấn Ph, sinh ngày 01-12-2014 và Nguyễn Quỳnh T, sinh ngày 10-9-2018.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Bị đơn là anh Nguyễn TA vắng mặt tại phiên tòa xét xử lần thứ hai không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Nguyễn TA.

[2] Về nội dung vụ án.

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trương Thị X và anh Nguyễn TA kết hôn trên cơ sở tự nguyện và đăng ký kết hôn tại UBND phường Lộc Hạ, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định nên là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống anh chị phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do cuộc sống chung nảy sinh nhiều bất đồng, hai bên không hòa hợp nên hay xảy ra cãi nhau. Tháng 7-2019 chị Trương Thị X đã làm đơn xin ly hôn với anh Nguyễn TA tại Tòa án nhân dân thành phố Nam Định nhưng sau đó rút đơn khởi kiện để vợ chồng đoàn tụ, giải quyết mâu thuẫn nhưng không có kết quả dẫn đến mâu thuẫn càng thêm trầm trọng, vợ chồng sống ly thân mỗi người một nơi, không quan tâm tới nhau. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án, đã mở phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải tạo điều kiện để hai bên đoàn tụ nhưng anh TA không có mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Tại phiên tòa chị X vẫn giữ nguyên quan điểm đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh Nguyễn TA.

Xét thấy quan hệ hôn nhân của chị X và anh TA mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 xử cho ly hôn giữa chị Trương Thị X và anh Nguyễn TA.

[2.2] Về nuôi con chung: Anh chị có 02 con chung là Nguyễn Tuấn Ph, sinh ngày 01-12-2014 và Nguyễn Quỳnh T, sinh ngày 10-9-2018. Theo chị X trình bày, từ khi vợ chồng sống ly thân, chị X nuôi cháu Nguyễn Quỳnh T, còn anh Nguyễn TA nuôi cháu Nguyễn Tuấn Ph. Nay chị X đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Quỳnh T còn anh Nguyễn TA sẽ trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Tuấn Ph và hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Theo quy định tại Điều 71 của Luật hôn nhân và gia đình thì “Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên”. Mặc dù anh Nguyễn TA không có quan điểm về nuôi con chung tuy nhiên Hội đồng xét xử sẽ căn cứ vào các quy định của pháp luật về giao con chung để đảm bảo quyền lợi mọi mặt của các con chung. Xét thấy, cháu Nguyễn Quỳnh T còn nhỏ, chưa đủ 36 tháng tuổi cần sự chăm sóc của mẹ nên Hội đồng xét xử giao cho chị Trương Thị X trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con chung là cháu Quỳnh Thư và giao cho anh Nguyễn TA trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con chung là cháu Nguyễn Tuấn Ph là phù hợp với quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con: Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[2.3] Về tài sản chung và công nợ chung: Chị X không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị X phải nộp toàn bộ án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho ly hôn giữa chị Trương Thị X và anh Nguyễn TA.

2. Về nuôi con chung: Giao cho chị Trương Thị X trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Nguyễn Quỳnh T, sinh ngày 10-9-2018. Giao cho anh Nguyễn TA trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con chung là Nguyễn Tuấn Ph, sinh ngày 01-12-2014. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị Trương Thị X và anh Nguyễn TA có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, nhưng không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trương Thị X phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) chị Trương Thị X đã nộp theo Biên lai tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0003533 ngày 23 tháng 2 năm 2021 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.

4. Chị Trương Thị X có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn TA có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì chị Trương Thị X và anh Nguyễn TA có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 249/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:249/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về