Bản án về ly hôn số 24/2023/HNGĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 24/2023/HNGĐ-PT NGÀY 28/07/2023 VỀ LY HÔN

Ngày 28 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh T xét xử phúc thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số:16/2023/TLPT-HNGĐ ngày 12 tháng 7 năm 2023, về việc “Tranh chấp ly hôn”.

Do bản án hôn nhân sơ thẩm số: 34/2023/HNGĐ-ST ngày 31/5/2023 của Tòa án nhân dân thị xã H, tỉnh T bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 20/2023/QĐ-PT ngày 12 tháng 7 năm 2023, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Huỳnh V H, sinh năm 1970; nơi cư trú: số X, đường N, tổ W, ấp N, xã Tr, thị xã H, tỉnh T; có mặt.

Người bảo vệ quyền lợi cho ông H: Luật sư Nguyễn V T- thuộc Công ty Luật sư TNHH MTV B; có mặt.

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Hồng Đ, sinh năm 1971; nơi cư trú: số X, đường N, tổ W, ấp N, xã Tr, thị xã H, tỉnh T; có mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Bà Huỳnh Thị B, sinh năm 1962; nơi cư trú: Số Q, đường L, ấp Â, xã Tr, thị xã H, tỉnh T; vắng mặt.

3.2. Bà Huỳnh Thị V, sinh năm 1968; nơi cư trú: Số J, tổ U, ấp Kh, xã C, huyện D, tỉnh T; vắng mặt.

3.3. Bà Huỳnh Thị T1, sinh năm 1971; nơi cư trú: Số S, đường L, ấp Â, xã Tr, thị xã H, tỉnh T; vắng mặt.

3.4. Anh Nguyễn Trần T2, sinh năm 1992. Nơi cư trú: số X, hẻm II, đường Tr, ấp Tr, xã T, thị xã H, tỉnh T; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

4. Người kháng cáo: Ông Huỳnh V H là nguyên đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn ông Huỳnh V H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà Đ tự nguyện chung sống vợ chồng, có đăng ký kết hôn ngày 30-10- 1990, tại UBND xã Tr, thị xã H, T. Vợ chồng chung sống không hạnh phúc, phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, do bà Đ không tôn trọng ông, ông không thể sống chung bà Đ, nay ông yêu cầu ly hôn bà Đ.

Về con chung: Có 02 con tên Huỳnh Thị Kim Ng, sinh năm 1992 và Huỳnh Thị Kim Ch, sinh năm 1995. Các con đã thành niên không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về nợ chung, tài sản chung: Không yêu cầu tòa án giải quyết.

Bị đơn bà Đ trình bày: Bà thống nhất về quan hệ hôn nhân, nguyên nhân mâu thuẫn gia đình do ông H ham chơi không lo làm, muốn được tự do chung sống với người phụ nữ khác không cố gắng cùng bà chăm sóc gia đình, lo làm ổn định kinh tế. Ông H thường ngoại tình đã nhiều lần xin lỗi và cam kết không tái phạm nhưng nay vẫn như vậy, bản thân bà đã chịu khổ nhiều năm. Nay ông bà đã lớn tuổi, bản thân ông H có bệnh, bà muốn giữ gia đình ổn định và tạo điều kiện cho ông H có cơ hội quay về được vợ con chăm sóc. Bà yêu cầu được đoàn tụ.

Về con chung: Có 02 con tên Huỳnh Thị Kim Ng, sinh năm 1992 và Huỳnh Thị Kim Ch, sinh năm 1995. Các con đã thành niên không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Trong quá trình chung sống, vợ chồng ông bà chỉ làm kinh tế buôn bán nhỏ, không có tiền để nuôi các con và ổn định cuộc sống, phải thường vay ngân hàng và vay cá nhân bên ngoài và khi cần tiền đáo hạn ngân hàng không có tiền phải mượn các chị em của ông H và anh T là bạn của con gái ông H để trang trải cuộc sống hàng ngày, nên việc vay nợ trả nợ liên tục, cụ thể:

Nợ bà Huỳnh Thị B là chị ruột của ông H, là tiền mượn để xây nhà số tiền là 72.000.000 đồng (bảy mươi hai triệu đồng). Thỏa thuận không tính lãi, không thế chấp tài sản.

Nợ bà Huỳnh Thị T1 là em ruột ông H, mượn 80.000.000 đồng (tám mươi triệu đồng), tiền vay để xây nhà, sử dụng gia đình. Thỏa thuận không tính lãi, không thế chấp tài sản.

Nợ bà Huỳnh Thị V là chị ruột ông H số tiền 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng), vay tiền để trả tiền Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn, chi nhánh H.

Nợ anh Nguyễn Trần T2 là bạn học của con gái ông H, số 120.000.000 đồng (một trăm hai mươi triệu đồng) để trả tiền nợ xây nhà, không tính tiền lãi, không thế chấp tài sản.

Ngoài ra không còn nợ ai khác, không có nợ ngân hàng nào khác.

Nay bà Đ đã thỏa thuận xin trả dần không khởi kiện nên không yêu cầu tòa án giải quyết nợ chung, tài sản chung.

Về tài sản chung: Có 02 phần đất.

- 01 phần đất có diện tích 240,6m2, tọa lạc tại ấp L, xã Tr, thị xã H do UBND huyện H cấp cho ông Huỳnh V H. Trên đất có 01 căn nhà cấp 4, xây tháng 4 năm 2019 (âm lịch).

- 01 phần có đất diện tích 3.818m2, tọa lạc tại ấp X, xã H, thị xã H do UBND huyện H cấp cho ông Huỳnh V H, bà Nguyễn Thị Hồng Đ.

Bà Đ rút đơn yêu cầu tòa án giải quyết chia tài sản chung vì bà yêu cầu được đoàn tụ gia đình.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà B, bà V, bà T thống nhất trình bày:

Các bà và ông H (tên thường gọi là L) là chị em ruột, bà B thứ 6, bà V thứ 7, bà T thứ 10, ông H thứ 8. Bà Đ là em dâu.

Các bà biết rõ mâu thuẫn hôn nhân của vợ chồng ông H, bà Đ là do bình thường ông H ít lo làm việc, chỉ phụ giúp công việc với bà Đ. Việc chăm lo kinh tế gia đình chủ yếu do bà Đ làm. Ông H ham chơi, có quan hệ vợ chồng với nhiều người phụ nữ khác, nhiều lần hứa, cam kết sửa sai không tái phạm nhưng khoản tháng 7/2022 ông H có quan hệ như vợ chồng với bà Trịnh Thị H, sinh năm 1973, sống chung như vợ chồng tại nhà trọ, các bà và bà Đ có đến bắt gặp và chụp hình lại. Các bên gây gổ được Công an xã T hòa giải cho gia đình hòa thuận, không có xử phạt vi phạm hành chính.

Bà Đ không có lỗi gì với ông H, bà Đ và các bà yêu cầu tòa án cho đoàn tụ để ông H có cơ hội quay về sống nghiêm túc, làm gương cho con cháu.

Việc vợ chồng ông H, bà Đ có nợ cụ thể:

Bà B trình bày: Ngày 18/4/2019, có cho vợ chồng bà Đ ông H vay số tiền 72.000.000 đồng (bảy mươi hai triệu đồng) để làm nhãn, không có tính lãi suất, nhưng đến nay chưa trả. Bà Đ có ký tên.

Bà V trình bày: Ngày 02/7/2019, có cho vợ chồng bà Đ ông H vay số tiền 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) để xây nhà, không có tính lãi suất, nhưng đến nay chưa trả. Bà Đ có ký tên.

Bà T trình bày: Ngày 01/02/2019, có cho vợ chồng bà Đ ông H vay số tiền 80.000.000 đồng (tám mươi triệu đồng) để xây nhà, không có tính lãi suất, nhưng đến nay chưa trả.

Các bà cho vợ chồng bà Đ ông H vay không tính lãi vì là chị em ruột giúp đỡ các em làm kinh tế sinh sống ổn định gia đình, nay vì ông H ham chơi mà phá gia đình nên các bà phải yêu cầu trả lại tiền, tuy nhiên các bà muốn tạo điều kiện cho vợ chồng bà Đ ông H đoàn tụ nên các bà không yêu cầu trả nợ, để cho bà Đ tiếp tục lo cho gia đình, tạo điều kiện cho ông H tu tâm dưỡng tính, sống hạnh phúc gia đình.

Anh Nguyễn Trần T2 trình bày: Năm 2020, anh có cho bà Đ mượn số tiền 60.000.000 đồng, năm 2021, anh có cho bà Đ mượn số tiền 70.000.000 đồng, tổng cộng 130.000.000 đồng. Anh cho bà Đ mượn tiền không có tính lãi, nay anh không yêu cầu bà Đ, ông H trả tiền nợ, do hiện bà Đ không yêu cầu tòa án giải quyết nợ chung, tài sản chung, khi nào có tranh chấp thì anh sẽ khởi kiện ở vụ kiện khác.

Tại bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số: 34/2023/HN-ST ngày 31-5-2023, của Tòa án nhân dân thị xã H, tỉnh T. Quyết định.

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

1. Không chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Huỳnh V H đối với bà Nguyễn Thị Hồng Đ.

Ông Huỳnh V H và bà Nguyễn Thị Hồng Đ vẫn còn quyền, nghĩa vụ vợ chồng.

Về con chung: Có 02 con tên Huỳnh Thị Kim Ng, sinh năm 1992 và Huỳnh Thị Kim Ch, sinh năm 1995. Các con đã thành niên không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về nợ chung, tài sản chung: Ông H, bà Đ, bà B, bà V, bà T, anh T không yêu cầu toà án giải quyết.

Đình chỉ yêu cầu chia tài sản chung theo đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị Hồng Đ. Bà Đ có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo cho các đương sự.

Ngày 13-6-2023, ông Huỳnh V H có đơn kháng cáo không đồng ý với bản án sơ thẩm ông cho rằng giữa ông và bà Đ không còn tình cảm với nhau và không còn quan tâm với nhau nữa. Việc đoàn tụ không thể thực hiện được. Ông và bà Đ ly thân đã 03 năm. Ông H yêu cầu được ly hôn với bà Đ.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Ông H trình bày: Ông H giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Bà Đ trình bày: Bà Đ không đồng ý yêu cầu kháng cáo của ông H.

Luật sư phát biểu bảo vệ quyền lợi cho ông H trình bày: Trong quá trình chung sống ông H, bà Đ đã mâu thuẫn nhiều năm không thể hàn gắn được, bà Đ không còn tình cảm với ông H, không có biện pháp đoàn tụ gia đình. Để ổn định cuộc sống cho ông H đề nghị Hội đồng xét xử cho ông H được ly hôn bà Đ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn, đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo của ông H. Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự. Sửa bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm của Tòa án nhân dân thị xã H, tỉnh T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ngày 31-5-2023, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên án, ngày 13-6-2023, nguyên đơn ông Huỳnh V H có đơn kháng cáo. Kháng cáo của ông H còn trong thời hạn theo quy định tại Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Xét yêu cầu kháng cáo của ông Huỳnh V H thấy rằng:

Ông Huỳnh V H và bà Nguyễn Thị Hồng Đ chung sống với nhau vào năm 1990, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Tr, huyện Hòa thành (nay thị xã H), tỉnh T. Quá trình chung sống ông H, bà Đ hạnh phúc thời gian đầu, sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống về kinh tế và tính tình không hòa hợp. Năm 2004, bà Đ có đơn xin ly hôn với ông H gửi ban tư pháp xã Tr (bút lục 53). Năm 2022, ông H có đơn xin ly hôn với bà Đ. Sau đó ông H rút đơn khởi kiện để vợ chồng đoàn tụ. Tòa án nhân dân thị xã H ra quyết định đình chỉ số:

93/2022/QĐ ST-HNGĐ ngày 28-10-2022. Sau khi rút đơn khởi kiện, thì giữa ông H và bà Đ cũng không thể hàn gắn tình cảm vợ chồng được. Ông H tiếp tục có đơn khởi kiện. Quá trình giải quyết vụ án tại biên bản tự khai ngày 10-12-2023; đơn phản tố ngày 13-12-2022; Biên bản hòa giải về nợ chung, tài sản chung bà Đ cũng đồng ý ly hôn với ông H (bút lục 31,33 40); tại bản tự khai ngày 19-4-2023, bà Đ xác định bà với ông H sống không có hạnh phúc (bút lục 57). Ông H và bà Đ sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay, hiện ông H và bà Đ không còn sống chung nhà, ông H đã chuyển đi sống nơi khác hơn 01 năm. Cho thấy mâu thuẫn giữa ông H và bà Đ đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên ông H và bà Đ không có khả năng đoàn tụ. Ông H yêu cầu ly hôn với bà Đ là có cơ sở. Do đó, có căn cứ chấp nhận đơn kháng cáo của ông H.

Về con chung: Có 02 con tên Huỳnh Thị Kim Ng, sinh năm 1992 và Huỳnh Thị Kim Ch, sinh năm 1995. Các con đã thành niên không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về nợ chung, tài sản chung: Ông H, bà Đ, bà B, bà V, bà T, anh T không yêu cầu tòa án giải quyết. Nếu có tranh chấp tách ra giải quyết ở vụ kiện khác.

[3] Từ những nhận định trên, có căn cứ chấp nhận đơn kháng cáo của ông H, chấp nhận lời trình bày của luật sư, chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát. Sửa bản án hôn nhân sơ thẩm số: 34/2023/HNGĐ-ST ngày 31-5-2023 của Tòa án nhân dân thị xã H, tỉnh T.

[4] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo của ông Huỳnh V H được chấp nhận nên ông H không phải chịu tiền án phí phúc thẩm theo khoản 2 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào các Điều 51, 56, Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ khoản 2 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

1. Chấp nhận đơn kháng cáo của ông Huỳnh V H.

2. Sửa bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số: 34/2023/HN-ST ngày 31-5- 2023, của Tòa án nhân dân thị xã H, tỉnh T 3. Chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Huỳnh V H đối với bà Nguyễn Thị Hồng Đ.

Về hôn nhân: Ông Huỳnh V H được ly hôn với bà Nguyễn Thị Hồng Đ .

Về con chung: Có 02 con tên Huỳnh Thị Kim Ng, sinh năm 1992 và Huỳnh Thị Kim Ch, sinh năm 1995. Các con đã thành niên không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về nợ chung, tài sản chung: Ông Huỳnh V H, bà Nguyễn Thị Hồng Đ, bà Huỳnh Thị B, bà Huỳnh Thị V, bà Huỳnh Thị T1, anh Nguyễn TrầnT không yêu cầu toà án giải quyết.

Đình chỉ yêu cầu chia tài sản chung theo đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị Hồng Đ. Bà Đ có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

4.Về án phí:

4.1. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Huỳnh V H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 0021149, ngày 05/12/2022, của Chi cục Thi hành án dân sự Thị xã H, tỉnh T. Ông H đã nộp xong.

Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Hồng Đ số tiền tạm ứng án phí đã nộp 5.000.000 đồng (năm triệu đồng), theo biên lai thu số 0021296, ngày 17/02/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự Thị xã H, tỉnh T.

4.2.Về án phí phúc thẩm : Ông Huỳnh V H không phải chịu tiền án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả lại cho ông H 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí kháng cáo theo biên lai thu số: 0021589 ngày 13-6-2023, của Chi cục thi hành án dân sự thị xã H, tỉnh T.

5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

7. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

2
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 24/2023/HNGĐ-PT

Số hiệu:24/2023/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về