Bản án về ly hôn số 24/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 24/2021/HNGĐ-ST NGÀY 12/03/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 12/3/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án sơ thẩm thụ lý số 150/2019/TLST-HNGĐ ngày 05/9/2019 về việc “Ly hôn”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 96/2020/QĐXX-ST ngày 25/6/2020, Thông báo mở lại phiên tòa số 79/TB-PT ngày 14/9/2020 và Thông báo mở lại phiên tòa số 09/TB-PT ngày 26/02/2021, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà NTTH – sinh năm 1959.

Địa chỉ: Số 78 Lê Duẩn, phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

* Bị đơn: Ông SCD – sinh năm 1966.

Quốc tịch: Hoa Kỳ. Số hộ chiếu: 422819063; Ngày cấp: 01/7/2007; Nơi cấp:

San Francisco, Hoa Kỳ.

Địa chỉ khi kết hôn: 221 Sargent St, San Francisco, CA 94132, Hoa Kỳ.

Địa chỉ theo Kết quả điều tra của Công ty ABC Legal: 1080, 23rd Ave, Apt 205, Oakland, CA 94606-5022, Hoa Kỳ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn ly hôn và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, Nguyên đơn là bà NTTH trình bày:

Bà NTTH quen biết ông SCD thông qua một người bạn giới thiệu từ tháng 2/2008 trong lần ông SCD đến Việt Nam chơi. Trong thời gian 1 tháng ông SCD ở Việt Nam, hai người đến Sở Tư pháp thành phố Hà Nội đăng ký kết hôn vào ngày 18/3/2008. Sau đó ông SCD trở về Mỹ. Bà NTTH vẫn ở lại Việt Nam để làm thủ tục để xin cấp thị thực nhưng bị Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam từ chối cấp thị thực. Kể từ đó, bà NTTH bắt đầu mất liên lạc không gặp ông SCD. Bà NTTH xác định chưa chung sống với ông SCD từ thời điểm đăng ký kết hôn đến nay. Hai bên không quan tâm đến nhau, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó bà NTTH đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội giải quyết cho ly hôn ông SCD.

Về con chung: Bà NTTH xác định vợ chồng không có con chung.

Về tài sản chung: Bà NTTH xác định vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về công nợ chung: Bà NTTH xác định vợ chồng không có công nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là ông SCD vắng mặt không có lý do.

Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã tiến hành thủ tục ủy thác tư pháp cho Công ty Process Forwarding International (ABC Legal) - cơ quan có thẩm quyền của Hoa Kỳ thực hiện tống đạt văn bản tố tụng cho ông SCD. Công ty ABC Legal đã tiến hành xác minh và cho biết ông SCD hiện không còn cư trú tại địa chỉ như trong đăng ký kết hôn, đồng thời cung cấp địa chỉ mới có thể là của ông SCD. Tòa án tiếp tục thực hiện ủy thác tư pháp theo địa chỉ mới của ông SCD. Tuy nhiên hết thời hạn thực hiện công việc được ủy thác, không cung cấp kết quả.

Tại Công văn số 1543/A08-P4 ngày 21/01/2021, Cục quản lý xuất nhập cảnh - Bộ Công an cung cấp: Ông SCD nhập cảnh vào Việt Nam ngày 19/2/2008 và xuất cảnh ngày 28/3/2008, hiện chưa có thông tin nhập cảnh.

Trong suốt quá trình Tòa án tiến hành tố tụng, ông SCD đều vắng mặt không có lý do.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Bà NTTH trình bày giữ nguyên yêu cầu và lý do xin ly hôn, đề nghị Tòa án giải quyết sớm để ổn định cuộc sống.

Ông SCD vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Hà Nội phát biểu:

Về thẩm quyền giải quyết, vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

Về thủ tục tố tụng, Thẩm phán, hội đồng xét xử cũng như Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên bị đơn ông SCD đều vắng mặt không có lý do mặc dù Tòa án đã tiến hành đầy đủ các biện pháp theo quy định của pháp luật. Do vậy Về nội dung: Thời gian chung sống của bà NTTH và ông SCD trên thực tế không có. Đến nay hai bên sống xa cách, không liên lạc, không quan tâm đến nhau.

Do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà NTTH. Về con chung, tài sản chung và công nợ chung, bà NTTH khai không có và không yêu cầu giải quyết nên không xen xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

* Về thẩm quyền:

Vụ án có đương sự là ông ông SCD là công dân Hoa Kỳ đang cư trú tại Hoa Kỳ. Do đó Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội thụ lý và giải quyết đơn ly hôn của bà NTTH là đúng thẩm quyền.

* Về tố tụng:

Ngày 25/9/2019, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã tiến hành ủy thác tư pháp theo Văn bản số 2620/2019/UTTPDS-TA24. Cơ quan có thẩm quyền của Hoa kỳ là Công ty Process Forwarding International (ABC Legal) đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng cho ông SCD theo địa chỉ cuối cùng (được ghi tại Giấy chứng nhận kết hôn). Kết quả ủy thác tư pháp cho thấy đến nay ông SCD không còn cư trú tại địa chỉ trên. Đồng thời Công ty Process Forwarding International (ABC Legal) cung cấp địa chỉ mới có thể là nơi ông SCD đang cư trú.

Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội tiếp tục có Văn bản số 2539/2019/UTTPDS-TA24 ngày 14/9/2020 đề nghị ủy thác tư pháp tống đạt các văn bản tố tụng cho ông SCD theo địa chỉ mới. Tuy nhiên hết hết thời hạn cung cấp kết quả, Tòa án không nhận được trả lời của Công ty Process Forwarding International (ABC Legal).

Do không thể tống đạt văn bản tố tụng, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và Đại sứ quán Việt Nam tại Hoa Kỳ đã tiến hành đăng thông báo vụ việc lên cổng thông tin điện tử theo quy định theo điểm c khoản 6 Điều 477 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Đến thời điểm mở phiên tòa, ông SCD vẫn vắng mặt. Vì vậy việc Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt là đúng quy định của pháp luật.

* Về nội dung:

Bà NTTH và ông SCD tự nguyện tìm hiểu, làm thủ tục đăng ký kết hôn với ông SCD tại Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (thông qua Sở Tư pháp thành phố Hà Nội) vào ngày 18/3/2008. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Xét lời trình bày của bà NTTH thể hiện quan hệ vợ chồng chỉ là hình thức, tồn tại trên giấy tờ. Thực tế hai người không ở cùng nhau từ khi đăng ký kết hôn cho đến nay. Ông SCD đã xuất cảnh khỏi Việt Nam vào ngày 28/3/2008, tức là chỉ 10 ngày sau khi đăng ký kết hôn với bà NTTH. Kể từ đó hai người không liên lạc, không quan tâm đến nhau, mục đích hôn nhân không đạt được. Để đảm bảo ổn định cuộc sống cho các bên, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà NTTH.

Về con chung, tài sản chung và công nợ chung: Bà NTTH khai vợ chồng không có và không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xét. Trường hợp phát sinh tranh chấp, các đương sự có quyền khởi kiện bằng vụ án khác khi có yêu cầu.

Về án phí: Bà NTTH phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, khoản 3 Điều 35, Điều 37, Điều 464, Điều 469, Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 56, Điều 57, Điều 122, Điều 123, Điều 127 Luật Hôn nhân & Gia đình năm 2014; Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 hướng dẫn mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà NTTH. Bà NTTH được ly hôn và chấm dứt quan hệ hôn nhân với ông SCD.

2. Về con chung: Bà NTTH khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

3. Về tài sản chung, công nợ chung: Bà NTTH khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Dành quyền khởi kiện cho các bên về các vấn đề con chung, tài sản chung và công nợ chung bằng vụ kiện khác khi có yêu cầu.

3. Về án phí: Bà NTTH phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 13502 ngày 26/6/2019 tại Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội.

Án xử công khai sơ thẩm.

Bà NTTH có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Ông SCD có quyền kháng cáo trong thời hạn 01 tháng ngày kể từ ngày Bản án được tống đạt hợp lệ hoặc Bản án được niêm yết hợp lệ./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1104
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 24/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:24/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:12/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về