Bản án về ly hôn số 224/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 224/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ LY HÔN 

Ngày 30 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 218/2022/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 7 năm 2022, về việc “Ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 291/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 8 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 194/2022/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2022, giữa:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1995.

ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn C, xã L, huyện B, tỉnh Hải Dương.

Vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Vũ Đình Đ, sinh năm 1997.

Nơi cư trú trước khi xuất cảnh: Thôn C, xã L, huyện B, tỉnh Hải Dương. Hiện đang cư trú tại: Cộng hòa Séc.

Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, Nguyên đơn chị Phạm Thị H trình bày: Chị và anh Vũ Đình Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân huyện B, tỉnh Hải Dương vào ngày 02/01/2018. Sau khi kết hôn được một thời gian ngắn thì anh Đ tiếp tục sang Cộng hòa Séc làm ăn, sinh sống. Thời gian đầu vợ chồng có liên lạc điện thoại với nhau, mỗi năm anh Đ về thăm chị một lần. Do vợ chồng sống xa cách mỗi người một nơi, nên tính cách và quan điểm sống bất đồng, vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn qua những cuộc điện thoại trao đổi. Sau đó cả 2 tìm cách hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng, tuy nhiên mâu thuẫn vợ chồng vẫn cứ tiếp diễn và ngày càng trầm trọng hơn. Kể từ tháng 9/2020 vợ chồng chấm dứt không liên lạc và không quan tâm đến nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn anh Vũ Đình Đ.

Về con chung, tài sản chung, nợ chung: Chị xác định vợ chồng không có con chung, không có tài sản chung cũng như không có nợ chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do chị H không cung cấp được địa chỉ của anh Đ nên Tòa án đã tiến hành xác minh tại gia đình anh Đ. Ông Vũ Đình D (chú ruột anh Đ) trình bày: Anh Đ cùng bố mẹ, anh em anh Đ làm ăn, sinh sống tại Cộng hòa Séc từ lâu, hiện gia đình không có ai có mặt tại địa phương. Địa chỉ của anh Đ là tiếng Séc nên ông không biết và không cung cấp cho Tòa án được. Tuy nhiên gia đình và anh Đ vẫn liên lạc điện thoại về cho ông. Ông đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và đã thông báo cho anh Đ biết, anh Đ và gia đình cũng nói chuyện về việc chị H đang có đơn xin ly hôn. anh Đ xác định vợ chồng sống xa cách từ lâu, không có sự gần gũi, gắn bó, tình cảm phai nhạt và không còn. Nay chị H có đơn xin ly hôn, anh hoàn toàn nhất trí. Anh xác định vợ chồng không có con chung, không có tài sản chung, không có nợ chung nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án xác minh tại chính quyền địa phương nơi chị H, anh Đ sinh sống thể hiện: Chị H và anh Đ kết hôn tại Uỷ ban nhân dân huyện B vào năm 2018. Sau khi kết hôn anh Đ sang Cộng hòa Séc làm ăn, sinh sống thỉnh thoảng có về địa phương, còn chị H vẫn sinh sống cùng bố mẹ đẻ tại Thôn C, xã L. Vợ chồng không có con chung, không có tài sản chung và sống xa cách mỗi người một nơi trong thời gian dài. Gia đình anh Đ có bố đẻ là ông Vũ Đình D1, mẹ đẻ là bà Vũ Thị T, anh trai là Vũ Đình D2 đều đang sinh sống tại Cộng hòa Séc, không có ai sinh sống tại địa phương. Ông D1 có chị gái là bà Vũ Thị D3 và em trai là ông Vũ Đình D đang sinh sống tại địa phương. Nay chị H có đơn xin ly hôn, địa phương đề nghị Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật để giải quyết.

Tòa án xác minh tại Công an xã L thể hiện: Ông Vũ Đình D và ông Vũ Đình D1 (bố đẻ anh Đ) là anh em có cùng cha, mẹ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án: Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị H ly hôn anh Vũ Đình Đ. Chị H phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn chị Phạm Thị H sinh sống ở Việt Nam, bị đơn anh Vũ Đình Đ có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh ở Thôn C, xã L, huyện B, tỉnh Hải Dương, hiện anh Đ đang làm ăn, sinh sống tại Cộng hòa Séc. Do vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị H không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh Đ. Tòa án đã nhiều lần yêu cầu gia đình anh Đ cung cấp địa chỉ nhưng gia đình không cung cấp được. Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho ông D là chú ruột của anh Đ để thông báo về việc Tòa án đang giải quyết vụ án ly hôn giữa chị H và anh Đ đồng thời tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Ông D vẫn liên lạc với anh Đ và đã thông báo việc Tòa án đang giải quyết vụ án ly hôn giữa chị H và anh Đ. Tại phiên tòa, chị H vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, thông qua gia đình anh Đ cũng có quan điểm đề nghị giải quyết vắng mặt. Do vậy, căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị H và anh Vũ Đình Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân huyện B, tỉnh Hải Dương vào ngày 02/01/2018 là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng chung sống được một thời gian ngắn thì anh Đ tiếp tục sang Cộng hòa Séc làm ăn sinh sống. Thời gian đầu vợ chồng có liên lạc điện thoại với nhau, mỗi năm anh Đ về thăm chị một lần. Do vợ chồng sống xa cách mỗi người một nơi, nên tính cách và quan điểm sống bất đồng, vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn qua những cuộc điện thoại trao đổi. Anh chị đã tìm cách hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng mâu thuẫn vẫn cứ tiếp diễn và trầm trọng hơn. Kể từ tháng 9/2020 vợ chồng không liên lạc và không quan tâm đến nhau. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Đ. Thông qua gia đình anh Đ cũng xác định vợ chồng sống xa cách mỗi người một nơi nên không còn tình cảm và nhất trí ly hôn. Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình thì vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình, có nghĩa vụ sống chung với nhau…Hội đồng xét xử xét thấy, anh chị không thực hiện được các nghĩa vụ nêu trên. Điều đó chứng minh mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần xử cho chị Phạm Thị H được ly hôn anh Vũ Đình Đ là phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về quan hệ con chung, tài sản chung và nợ chung: Chị Phạm Thị H và anh Vũ Đình Đ cùng xác định vợ chồng không có và không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3]. Về án phí: Chị Phạm Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51; 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị H ly hôn anh Vũ Đình Đ.

2. Về quan hệ con chung, tài sản chung, nợ chung: Không có.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) và được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0001119 ngày 07/7/2022 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Anh Vũ Đình Đ được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 224/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:224/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về