Bản án về ly hôn số 22/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 22/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/07/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 14 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 410/2021/TLST- HNGĐ ngày 21 tháng 12 năm 2021 về “Ly hôn”theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 410/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 30 tháng 5 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 25/2022/QĐST- HNGĐ ngày 16 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị P, sinh năm 1993, địa chỉ: 12 L, phường A, quận K, thành phố Đà Nẵng (có mặt);

- Bị đơn: Ông Hoàng Anh T, sinh năm 1986, địa chỉ: 12 L, phường A, quận K, thành phố Đà Nẵng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện gửi đến Tòa án ngày 16.12.2021 cũng như trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn là bà Phạm Thị P trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Tôi và ông Hoàng Anh T kết hôn với nhau vào năm 2019 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân (UBND) phường An Khê, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn, chúng tôi chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông T tham gia cờ bạc cá độ đá banh nên vợ chồng thường xuyên cải vã và xung đột với nhau. Tôi đã khuyên can, tha thứ nhiều lần nhưng ông T vẫn không chịu nghe, nhưng vì con còn nhỏ nên tôi cố gắng níu kéo đến hôm nay. Hiện nay tôi và ông T đã tự sống ly thân nhau, tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy tôi yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với ông Hoàng Anh T.

- Về con chung: Tôi và ông T có 01 con chung là Hoàng Diễm M, sinh ngày 06/01/2020. Ly hôn, tôi có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Về cấp dưỡng nuôi con thì từ khi gửi đơn ly hôn đến Tòa, tôi có yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 4.000.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Nhưng tại phiên tòa hôm nay tôi không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con, vì tôi đảm bảo tự nuôi con được.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn là ông Hoàng Anh T không tham gia các buổi hòa giải, không có mặt tại phiên tòa và không có văn bản phản hồi, nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của bị đơn.

* Tại biên bản xác minh ngày 20 tháng 4 năm 2022 ở địa phương nơi cư trú thể hiện: Bà Phạm Thị P và ông Hoàng Anh T đăng ký kết hôn hôn vào năm 2019 tại UBND phường An Khê, quận Thanh Khê. Sau khi kết hôn, bà P và ông T sinh sống tại địa chỉ 12 L8, phường An Khê, quận Thanh Khê. Đến năm 2021 mâu thuẫn vợ chồng xãy ra, bà P thuê nhà ở riêng. Bà P và ông T có 01 con chung tên Hoàng Diễm M hiện đang sống với bà P.

* Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Tòa án nhân dân quận Thanh khê đã căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, thụ lý giải quyết vụ án đúng thẩm quyền. Tòa án đã tiến hành việc thu thập chứng cứ đảm bảo theo quy định tại Điều 97 Bộ luật tố tụng dân sự. Thời hạn chuẩn bị xét xử, việc cấp, tống đạt văn bản tố tụng được đảm bảo theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa tuân theo đúng quy định của pháp luật.

- Đối với các đương sự:

+ Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng;

+ Bị đơn, mặc dù đã được Tòa án thực hiện việc cấp tống đạt các văn bản tố tụng theo đúng trình tự do pháp luật quy định, nhưng vẫn vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng và cũng không gửi cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến, không thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại các Điều: 70, 71,72 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Việc bà Phạm Thị P yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Hoàng Anh T là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, xử cho bà P được ly hôn với ông T. Về con chung: Bà P và ông T có 01 con chung là Hoàng Diễm M, sinh ngày 06/01/2020. Đề nghị Hội đồng xét xử giao cho bà P nuôi con chung. Tại phiên tòa, bà P không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận sự tự nguyện này của bà P.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà P khai không có nên không đề cập.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Phạm Thị P khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Hoàng Anh T có địa chỉ cư trú tại: 12 L, phường A, quận K, thành phố Đà Nẵng. Căn cứ Điều 28, điểm a khoản 1 Điểu 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì đây là vụ án ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo đúng trình tự do pháp luật quy định, nhưng bị đơn là ông Hoàng Anh T vẫn vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng. Tòa án đã 02 lần mở phiên tòa nhưng ông T đều vắng mặt. Do vậy Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị P và ông Hoàng Anh T đăng ký kết hôn vào năm 2019, tại UBND phường An, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Đây là hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, bà Phạm Thị P vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin được ly hôn với ông Hoàng Anh T, lý do là vợ chồng bất đồng quan điểm, mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng, vợ chồng đã sống ly thân nhau, mục đích hôn nhân không đạt được.

Xét yêu cầu của bà P thì thấy: Hạnh phúc gia đình chỉ thực sự đạt được khi cả vợ chồng cùng yêu thương, chia sẻ, quan tâm nhau. Nhưng trên thực tế thì vợ chồng bà P, ông T đã tự sống ly thân, không ai còn quan tâm đến nhau. Qua xác minh tại địa phương nơi cư trú thì mâu thuẫn vợ chồng như bà P trình bày là có thật.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành nhiều phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng không thực hiện được do vắng mặt ông T. Điều này chứng tỏ ông T không còn quan tâm đến cuộc hôn nhân giữa ông và bà P. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức độ trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được; ý kiến đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà P đối với ông T là thoả đáng, phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Bà Phạm Thị P khai bà và ông T có 01 con chung là Hoàng Diễm M, sinh ngày 06/01/2020. Ly hôn, bà P có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung. Quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án, bà P có yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con Hoàng Diễm M mỗi tháng 4.000.000 đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi. Tại phiên tòa, bà P tự nguyện nuôi con, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy: Việc giao con chung cho ai trực tiếp nuôi dưỡng phải đảm bảo cuộc sống cũng như tương lai của con và điều kiện thực tế của mỗi bên. Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì hiện tại bà P là người đang trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung và có yêu cầu được tiếp tục nuôi con. Còn ông T thì không có ý kiến hoặc yêu cầu gì; việc bà P không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con là sự tự nguyện, tự định đoạt của đương sự. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của bà P như đã nêu trên cũng như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp quy định tại các Điều 81,82,83 của Luật hôn nhân và Gia đình nên cần chấp nhận.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn bà P khai không có,nên Hội đồng xét xử không đề cập.

[5] Về án phí: Bà Phạm Thị P phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều: 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 39; khoản 2 Điều 227 và Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều: 56; 81;82;83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Ly hôn” của bà Phạm Thị P đối với ông Hoàng Anh T.

- Xử cho bà Phạm Thị P được ly hôn với ông Hoàng Anh T.

2. Về con chung: Giao cho bà Phạm Thị P trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc 01 con là Hoàng Diễm M, sinh ngày 06/01/2020. Bà P tự nguyện nuôi con, ông Hoàng Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Các bên đương sự có mọi quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật. Khi vì lợi ích con chung, các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Bà Phạm Thị P phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng bà P đã nộp tại Biên lai thu số 0002445 ngày 21.12.2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Bà Phạm Thị P đã nộp đủ án phí;

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 22/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:22/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về