Bản án về ly hôn số 209/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 209/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/09/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 22 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 167/2022/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2022 về “ Ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 253/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 174/2022/QĐ-ST ngày 06 tháng 9 năm 2022 giữa:

1. Nguyên đơn: Anh Trần Quang K, sinh năm 1982. Địa chỉ: Thôn N, xã V, huyện V, tỉnh Thái Bình. Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1993.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Đội 1, thôn B, xã , huyện K, tỉnh Hải Dương. Hiện đang lao động tại: Hàn Quốc. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai của nguyên đơn anh Trần Quang K trình bày: Anh và chị H tự do tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân xã V, huyện V, tỉnh Thái Bình ngày 12/7/2014. Sau ngày cưới vợ chồng sống hạnh phúc khoảng 2 năm thì chị H làm hồ sơ đi du học tại Hàn Quốc, do vợ chồng mỗi người sống một nơi nên tình cảm bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, không tìm thấy tiếng nói chung, không tin tưởng lẫn nhau. Vợ chồng không còn liên lạc từ năm 2020. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị H.

Về con chung, tài sản chung, nợ chung: Không có, nên anh không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại lời khai của bà Nguyễn Thị H là mẹ đẻ chị H xác định: Chị H đi Hàn Quốc lao động từ năm 2016, từ khi đi chị H chưa về Việt Nam lần nào, bà không biết địa chỉ của chị H nên không thể cung cấp cho Tòa án, nhưng chị H tH xuyên liên lạc điện thoại về gia đình. Bà Hồi cho biết vợ chồng anh K, chị H sống không hạnh phúc, nguyên nhân do vợ chồng không có con chung. Bà H đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho chị H biết. Sau khi được thông báo, chị H không có văn bản thể hiện quan điểm về việc giải quyết vụ an, tuy nhiên qua liên lạc điện thoại với gia đình, chị H có quan điểm: Xác định tình cảm vợ chồng không còn nên anh K có đơn xin ly hôn chị cũng nhất trí. Về con chung, tài sản chung, nợ chung chị H xác định không có nên không đề nghị Tòa án giải quyết. Chị đề nghị được giải quyết vắng mặt.

Tòa án xác minh tại Ủy ban nhân xã B thể hiện: Chị Nguyễn Thị H có hộ khẩu tH trú tại Thôn B, xã B, huyện K, tỉnh Hải Dương. Chị H đăng ký kết hôn tại huyện V, tỉnh Thái Bình, không có thời gian nào sinh sống tại địa phương, nên địa phương không nắm được nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị H và anh K. Nay địa phương đề nghị Tòa án căn cứ quy định của pháp luật để giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Hội đồng xét xử (HĐXX), Thư ký phiên tòa và nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (viết tắt BLTTDS). Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho anh K được ly hôn chị H. Về án phí: Anh K phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm đại diện Viện kiểm sát, HĐXX nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn anh Trần Quang K có hộ khẩu tH trú tại thôn N, xã V, huyện V, tỉnh Thái Bình. Bị đơn chị Nguyễn Thị H có hộ khẩu tH trú tại Thôn B, xã B, huyện K, tỉnh Hải Dương, hiện đang lao động tại Hàn Quốc không rõ địa chỉ. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

Quá trình giải quyết vụ án, anh K không cung cấp được địa chỉ của chị H ở Hàn Quốc. Tòa án đã đề nghị gia đình chị H cung cấp địa chỉ, nhưng gia đình không cung cấp được. Qua xác minh tại gia đình chị H thì được biết, chị H tH xuyên liên lạc với mẹ đẻ là Đồng Thị H. Bà H đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và đã thông báo cho chị H biết. Tòa án cũng đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Đến ngày mở phiên tòa lần thứ hai chị H vẫn vắng mặt, anh K đề nghị giải quyết vắng mặt. Căn cứ Điều 227 và khoản 1 Điều 228 BLTTDS, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Trần Quang K và chị Nguyễn Thị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện V, tỉnh Thái Bình ngày 12/7/2014 nên hôn của anh chị là hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không có con chung, mỗi người sống một nơi nên không có tình cảm cũng như không hòa hợp, không tin tưởng nhau. Thông qua gia đình, chị H cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị có quan điểm đồng ý ly hôn. Mâu thuẫn giữa anh K, chị H được chứng minh thông qua lời khai của đại diện gia đình chị H và của các đương sự. HĐXX xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa anh K, chị H đã trầm trọng, vợ chồng sống ly thân từ năm 2016 cho đến nay, không ai quan tâm tới ai, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho anh K ly hôn chị H là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung, tài sản chung, nợ chung: Anh K, chị H xác định không có nên không yêu cầu. Do vậy, HĐXX không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Nguyên đơn anh Trần Quang K phải chịu án phí dân sự (về hôn nhân gia đình) sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a, Khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban tH vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a, Khoản 5, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban tH vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Trần Quang K ly hôn chị Nguyễn Thị H 2. Về án phí: Anh Trần Quang K phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (Hôn nhân và gia đình). Đối trừ số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí, theo biên lai thu số AA/2021/0000398 ngày 07/6/2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.

3. Về quyền kháng cáo: Anh Trần Quang K có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Chị Nguyễn Thị H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 209/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:209/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về