TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK SONG, TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 20/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/06/2022 VỀ LY HÔN
Ngày 21 tháng 6 năm 2022 tại Phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Đắk Song xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 25/2022/TLST- HNGĐ ngày 14 tháng 02 năm 2022 về việc “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 5 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 16/2022/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị T, sinh năm 1997, có đơn xin xét xử vắng mặt. Địa chỉ: Tổ dân phố 04, thị trấn Đ, huyện S, tỉnh Đắk Nông.
2. Bị đơn: Anh Hoàng Duy K, sinh năm 1994, vắng mặt.
Địa chỉ: Tổ dân phố 04, thị trấn Đ, huyện S, tỉnh Đắk Nông.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Trong đơn khởi kiện đề ngày 08/02/2022, bản tự khai, biên bản lấy lời khai của nguyên đơn chị Trần Thị T trình bày: Chị Trần Thị T và anh Hoàng Duy K kết hôn ngày 06/01/2018, đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Đ, huyện S, tỉnh Đắk Nông; việc kết hôn được dựa trên cơ sở tự nguyện. Trong quá trình chung sống, vợ chồng anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn, lý do là không có sự hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung trong nhiều vấn đề của cuộc sống, nên chị T và anh K không còn chung sống với nhau. Nay chị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị T được ly hôn với anh Hoàng Duy K.
Về con chung: Không có.
Về tài sản chung: Không có.
Ngày 29/4/2022 chị Trần Thị T có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Đối với anh Hoàng Duy K. Trong quá trình giải quyết vụ án, tất cả các văn bản của Tòa án đều được tống đạt hợp lệ cho anh K, nhưng anh K không đến Tòa án làm việc nên Tòa án nhân dân huyện Đắk Song đã phối hợp với chính quyền địa phương lập biên bản về việc không tống đạt được văn bản của Tòa án và niêm yết theo quy định của pháp luật để làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án.
Kết quả thu thập chứng cứ: Trong thời gian ở địa phương thì anh K và chị T có mâu thuẫn vợ chồng, nguyên nhân xuất phát từ việc anh K bị bệnh, khi xảy ra mâu thuẫn không báo với chính quyền địa phương để hòa giải nên địa phương không nắm rõ cụ thể thông tin.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và sự tuân theo pháp luật tố tụng của nguyên đơn, bị đơn trong vụ án:
- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký từ khi thụ lý vụ án và của Hội đồng xét xử tại phiên tòa đã thực hiện đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình; bị đơn không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng tại phiên tòa vẫn vắng mặt lần thứ hai không có lý do nên việc HĐXX tiến hành xét xử vụ án là đúng theo quy định của pháp luật.
- Về tố tụng: Đảm bảo đầy đủ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị T ly hôn với anh Hoàng Duy K;
Về con chung: Không có.
Về tài sản chung: Không có.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về tố tụng: Thẩm quyền giải quyết của Tòa án và quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Trần Thị T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Hoàng Duy K; anh Hoàng Duy K có đăng ký hộ khẩu thường trú tại Tổ dân phố 04, thị trấn Đ, huyện S, tỉnh Đắk Nông. Vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đắk Song theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS; quan hệ pháp luật yêu cầu giải quyết là “Ly hôn”.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị T và anh Hoàng Duy K đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật trên cơ sở tự nguyện, đời sống hôn nhân giữa chị T và anh K thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn và bất hòa, nguyên nhân là do cả hai không cùng quan điểm sống. Hiện nay chị T và anh K không còn sống chung với nhau một thời gian dài, chị T có nguyện vọng được ly hôn với anh K. Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn giữa chị T và anh K là trầm trọng, đời sống hôn nhân không thể tiếp tục kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận cho chị T ly hôn với anh K.
[3]. Về con chung: Không có nên không đề cập giải quyết. [4.] Về tài sản chung: Không có nên không đề cập giải quyết.
[5]. Về án phí: Chị Trần Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 227, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng Điều 56, Điều 57 của Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị T.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị T ly hôn anh Hoàng Duy K.
2. Về con chung: Không có
3. Về tài sản chung: Không có.
4. Về án phí: Chị Trần Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông theo biên lai số 0001275 ngày 09 tháng 02 năm 2022.
5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn; Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc Tòa án niêm yết bản án lên Tòa án cấp trên yêu cầu xét xử phúc thẩm.
Bản án về ly hôn số 20/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 20/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đắk Song - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về