Bản án về ly hôn số 195/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN SỐ 195/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/09/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 19 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 210/2022/HNGĐ- TLST ngày 06/07/2022, về việc “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 247/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 15/8/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 170/2022/QĐ-ST ngày 31 tháng 8 năm 2022 giữa:

  1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh ngày 12/9/1995 ĐKHKTT: Thôn Thái Kh, xã Thái D, huyện B, tỉnh Hải Dương. (Vắng mặt, có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt)
  2.  Bị đơn: Anh Vũ Nhật Th, sinh ngày 05/11/1990 Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn Tuyển C, xã Tân H, huyện B, tỉnh Hải Dương Hiện đang lao động tại: Đài Loan (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai - Nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bầy: Chị và anh Th tự do tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân H, huyện B, tỉnh Hải Dương ngày 22/03/2019. Vợ chồng sống cùng nhau khoảng 01 tháng thì anh Th đi Đài Loan, chị ở nhà với bố mẹ chồng. Trong cuộc sống hàng ngày giữa chị và bố mẹ chồng xảy ra mâu thuẫn, bất đồng quan điểm. Đến tháng 8/2019 chị đã về nhà mẹ đẻ ở, vợ chồng từ đó ít liên lạc, không còn quan tâm đến nhau, hai bên đã nhiều lần nói chuyện ly hôn, tuy nhiên đến nay anh Th chưa về Việt Nam để giải quyết chuyện tình cảm vợ chồng. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Th.

Về con chung: Chị và anh Th không có, ly hôn không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, ly hôn không đề nghị Tòa án giải quyết.

Anh Vũ Nhật Th hiện nay đang lao động tại Đài Loan, nhưng do chị H không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh Th nên Tòa án đã xác minh địa chỉ của anh Th tại gia đình. Ông Vũ Nhật Ch là bố đẻ anh Th cung cấp, anh Th đi Đài Loan từ năm 2019, từ khi đi anh Th chưa về Việt Nam lần nào, ông không biết địa chỉ của anh Th nên không thể cung cấp cho Tòa án. Tuy nhiên anh Th thường xuyên gọi điện về cho ông. Ông Ch cho biết vợ chồng anh Th, chị H sống cùng nhau khoảng 01 tháng thì anh Th sang Đài Loan làm việc, chị H ở nhà cùng ông bà khoảng 4 tháng rồi tự ý về nhà bố mẹ đẻ ở. Từ đó vợ chồng chị H, anh Th mâu thuẫn, không tìm thấy tiếng nói chung. Ông Ch đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho anh Th biết. Sau khi được thông báo, qua gia đình anh Th có quan điểm, xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị H có đơn xin ly hôn anh cũng nhất trí. Về con chung, tài sản chung, nợ chung anh Th xác định không có, đồng thời anh đề nghị được giải quyết vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy mâu thuẫn giữa chị H, anh Th đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị H được ly hôn anh Th.

Về án phí: chị H phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị H đang sinh sống tại thôn Thái Kh, xã Thái D, huyện B, tỉnh Hải Dương. Anh Vũ Nhật Th có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh tại: thôn Tuyển C, xã Tân H, huyện B, tỉnh Hải Dương, hiện đang sinh sống và làm việc tại Đài Loan. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

Quá trình giải quyết vụ án, chị H không cung cấp được địa chỉ của anh Th ở Đài Loan. Theo hướng dẫn tại công văn số 253/TANDTC – PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân tối cao, Tòa án đã nhiều lần yêu cầu gia đình anh Th cung cấp địa chỉ, nhưng gia đình không cung cấp được. Qua xác minh tại gia đình anh Th cho thấy, anh Th thường xuyên liên lạc với bố đẻ là ông Vũ Nhật Ch. Ông Ch đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và đã thông báo cho anh Th biết. Tòa án cũng đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Do vậy áp dụng công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án tiến hành xét xử theo thủ tục cố tình giấu địa chỉ.

Chị H có quan điểm xin được xét xử vắng mặt. Anh Th đã được gia đình thông báo và cũng có quan điểm giải quyết vắng mặt. Do vậy căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2]. Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Vũ Nhật Th kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân H, huyện B, tỉnh Hải Dương ngày 22/3/2019, do vậy hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Sau ngày cưới vợ chồng sống hòa thuận, hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do chị H sống cùng gia đình chồng không được hòa hợp, xảy ra bất đồng quan điểm, chị H về bố mẹ đẻ ở từ tháng 8/2019 cho đến nay, từ đó vợ chồng không còn quan tâm, liên lạc với nhau. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn và có đơn xin ly hôn anh Th. Thông qua gia đình anh Th cũng có quan điểm đồng ý ly hôn. Xét thấy, mâu thuẫn giữa chị H, anh Th đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên có căn cứ chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H.

- Về con chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Vũ Nhật Th không có con chung, ly hôn Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

- Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Vũ Nhật Th.

2. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) chị H đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0001110 ngày 06 tháng 7 năm 2022 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương. Chị H đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị H, được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Anh Vũ Nhật Th được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

39
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 195/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:195/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về