Bản án về ly hôn số 192/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 192/2021/HNGĐ-ST NGÀY 06/12/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 06 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia thụ lý số 171/2021/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 02 năm 2021 về “ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 194/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 11 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: bà Lê Thị H, sinh năm 1990.

Địa chỉ: thôn Thạnh Phú T, xã Hòa Mỹ Tây, huyện Tây H, tỉnh Phú Yên.

- Bị đơn: ông Mai Công T, sinh năm 1990.

Địa chỉ: ấp Bàu Trai Th, xã Tân Ph, huyện C, tỉnh Long An.

(Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 24/02/2021 nguyên đơn bà Nguyễn Thị H trình bày và yêu cầu:

Bà H và ông Mai Công T cưới nhau năm 2010, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đức Lập Hạ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An ngày 22/02/2012. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên bà và ông T thường xuyên cải vã nhau, cuộc sống chung luôn bất đồng nên không mang lại hạnh phúc trong hôn nhân. Bà H và ông T đã ly thân từ năm 2018 cho đến nay.

Về hôn nhân: bà Nguyễn Thị H yêu cầu ly hôn với ông Mai Công T.

Về nuôi con chung: bà Hoa và ông T có 01 con chung tên Mai Nguyễn Công Minh, sinh ngày 05/6/2011 hiện đang chung với bà H, khi ly hôn bà H yêu cầu trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: bà Nguyễn Thị H trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 24 tháng 11 năm 2021 bị đơn là ông Mai Công T trình bày như sau: ông thống nhất phần trình bày của bà H về ngày, tháng, năm, điều kiện kết hôn, nguyên nhân mâu thuẫn, về con chung, việc ông và bà H không có tài sản chung và không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về hôn nhân: ông đồng ý ly hôn theo yêu cầu của bà Nguyễn Thị H.

Về nuôi con chung: ông đồng ý để bà H trực tiếp nuôi con chung tên Mai Nguyễn Công Minh, sinh ngày 05/6/2011 hiện đang chung với bà Hoa, ông không cấp dưỡng nuôi con chung.

Bị đơn là ông Mai Công T được tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng của Tòa án nhưng ông không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của ông và ông T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Bà Nguyễn Thị H khởi kiện yêu cầu ly hôn ông Mai Công T hiện đang cư trú tại: ấp Bàu Trai Th, xã Tân Ph, huyện C, tỉnh Long An, Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tỉnh Long An thụ lý giải quyết vụ án là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[2] Bà Nguyễn Thị H và ông Mai Công T chung sống có đăng ký kết hôn ngày 22/02/2012 tại Ủy ban nhân dân xã Đức Lập Hạ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Quan hệ hôn nhân giữa bà H và ông T là hôn nhân hợp pháp theo quy định của pháp luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Trong thời gian Tòa án thụ lý vụ án, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị H, bị đơn ông Mai Công T được tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng của Tòa án nhưng bà H, ông T có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt ông, bà. Hội đồng xét xử xét đơn khởi kiện của bà Hoa theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[4] Xét yêu cầu ly hôn của bà H: Xét bà H và ông T phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên vợ chồng thường xuyên cải vã nhau, bà H và ông T đã ly thân từ năm 2018 đến nay và hiện vẫn đang sống ly thân, tự mỗi người lo cho bản thân, không quan tâm chăm sóc nhau. Mâu thuẫn giữa bà H và ông T đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Yêu cầu ly hôn của bà H là có căn cứ, phù hợp quy định tại điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 nên chấp nhận.

[5] Về con chung: Xét bà H và ông T có 01 con chung tên Mai Nguyễn Công Minh, sinh ngày 05/6/2011 hiện đang chung với bà H khi ly hôn, bà H yêu cầu trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Xét việc bà H yêu cầu trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung là tự nguyện và ông T đồng ý giao con chung để bà H trực tiếp nuôi, ông không cấp dưỡng nuôi con chung, phù hợp theo nguyện vọng của con chung và phù hợp theo quy định tại các Điều 81, 82, 107 và 110 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 nên chấp nhận.

[6] Xét về tài sản chung và nợ chung: bà H và ông T trình bày không có, không yêu cầu không đề cập giải quyết. Nếu sau này có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết bằng vụ án khác là phù hợp.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, xét thấy: bà H là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn, nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp. Bà Hoa đã nộp đủ án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 147 và Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân: bà Nguyễn Thị H được ly hôn với ông Mai Công T.

Về nuôi con chung: bà Nguyễn Thị H được quyền trực tiếp nuôi con chung tên Mai Nguyễn Công Minh, sinh ngày 05/6/2011 hiện đang chung với bà Hoa, ông Toán không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Bên không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom con chung mà không ai được quyền cản trở. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về chia tài sản chung, nợ chung: bà Nguyễn Thị H và ông Mai Công T thống nhất trình bày không có, Tòa án không đề cập giải quyết. Nếu sau này có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết bằng một vụ án khác.

Về án phí dân sự sơ thẩm: bà Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn, khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp (theo biên lai thu số 0007529 ngày 24/02/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa). Bà Hoa đã nộp đủ án phí.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 192/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:192/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về