Bản án về ly hôn số 19/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BĐ - TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 19/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/02/2021 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ N VỚI ANH T

Trong ngày 26 tháng 02 năm 2021, tại Hội trường xét xử của Toà án nhân dân huyện BĐ, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số: 511/2020/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 11 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/QĐXXST-HNGĐ ngày 29/01/2021, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Trần Thị Mỹ N, sinh năm 1988 (Có mặt).

Đại chỉ: Ấp 5, xã BT, huyện BĐ, tỉnh Bến Tre.

* Bị đơn: Huỳnh Long T, sinh năm 1970 (Vắng mặt). Đại chỉ: Ấp 5, xã BT, huyện BĐ, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 09 tháng 11 năm 2020, những lời khai tiếp theo, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn Trần Thị Mỹ N trình bày:

Chị Trần Thị Mỹ N và anh Huỳnh Long T tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2009, hai bên có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã BT, huyện BĐ, tỉnh Bến Tre và được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 12/11/2011. Sau khi cưới, vợ chồng chung sống có hạnh phúc. Đến năm 2013, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, không thể hàn gắn được, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính tình hai bên không hòa hợp, vợ chồng thường hay cự cãi nhau, anh T ghen tuông vô cớ, thường xuyên chửi, mắng và đánh đập vợ, con. Anh T đi làm về đưa tiền cho chị N rất ít không đủ nuôi con. Ngoài ra, anh T có quan hệ với người phụ nữ khác. Chị N cố gắng hàn gắn, thuyết phục anh T nhưng không có kết quả, dẫn đến mâu thuẫn vợ, chồng ngày càng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được và đã sống ly thân từ tháng 01 năm 2020 cho đến nay.

Tại tòa, chị Trần Thị Mỹ N vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết những vấn đề sau đây:

Về quan hệ hôn nhân: Yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết cho ly hôn với anh Huỳnh Long T.

Về con chung: Có 02 con chung tên là Huỳnh Thị Khánh N1, sinh ngày 05/8/2010; Huỳnh Thanh G, sinh ngày 08/9/2013. Sau khi ly hôn, chị N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N1 và cháu G, đồng thời yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 745.000 đồng cho mỗi đứa con. Thời gian cấp dưỡng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 26/02/2021) cho đến khi các con chung T niên.

- Về tài sản chung: Hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

- Về nợ chung: Không có.

Tại bản tự khai ngày 29/01/2021, những lời khai tiếp theo trong quá trình tố tụng, anh Huỳnh Long T trình bày:

Anh Huỳnh Long T thống nhất hoàn toàn với lời trình bày của chị Trần Thị Mỹ N về quá trình chung sống, đăng ký kết hôn, con chung, tài sản chung và nợ chung. Tuy nhiên, về nguyên nhân vợ chồng phát sinh mâu thuẫn thì anh T không thống nhất. Theo anh T, vợ chồng anh T và chị N không có phát sinh mâu thuẫn gì lớn. Trong năm 2018, chị N tự ý bỏ về nhà cha, mẹ ruột ở tỉnh Đắk Lắk sinh sống nhưng anh T tha thứ và rước chị N trở về nhà (Ấp 5, xã BT) sinh sống và vợ chồng đoàn tụ. Đến năm 2019, trong lúc anh T đi chạy cào thì chị N tiếp tục bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống. Sau đó, anh T tiếp tục nan nỉ và rước về. Năm 2020, chị N có quan hệ tình cảm với người khác, do đó, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn và cự cải. Anh T còn thương vợ, thương con, mong muốn vợ chồng đoàn tụ, vì thế chị N yêu cầu ly hôn, anh T không đồng ý. Trong trường hợp Tòa án xem xét giải quyết cho vợ chồng chị N và anh T ly hôn, anh T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung tên là Huỳnh Thị Khánh N1, sinh ngày 05/8/2010; Huỳnh Thanh G, sinh ngày 08/9/2013 và không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: không có.

* Ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật và quan điểm giải quyết vụ án:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự:

Thẩm phán thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án cho đến khi ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử. Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân theo đúng các quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự trong quá trình xét xử sơ thẩm vụ án. Các đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ theo Điều 70, 71, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Trần Thị Mỹ N đối với anh Huỳnh Long T.

Về con chung: Chị Trần Thị Mỹ N được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung tên Huỳnh Thị Khánh N1, sinh ngày 05/8/2010; Huỳnh Thanh G, sinh ngày 08/9/2013 (Phù hợp với nguyện vọng của cháu N1 và cháu G) để đảm bảo sự phát triển bình thường của các cháu.

Anh Huỳnh Long T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho chị N theo quy định pháp luật, mỗi tháng là 745.000 đồng cho mỗi đứa con. Thời gian cấp dưỡng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 26/02/2021) cho đến khi các con chung T niên.

Về tài sản chung: Hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét, giải quyết.

Về nợ chung: không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Huỳnh Long T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, tuy nhiên anh T có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, do đó xét xử vắng mặt anh T là phù hợp với Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Xét yêu cầu của hai bên đương sự và đề nghị của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Mỹ N và anh Huỳnh Long T tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2009, hai bên có đăng ký kết hôn theo luật định nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Sau khi cưới, vợ chồng chung sống có hạnh phúc. Đến năm 2013, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính tình hai bên không hòa hợp, vợ chồng thường hay cự cãi nhau về chuyện tiền bạc và tình cảm. Kể từ khi phát sinh mâu thuẫn đến nay đã kéo dài nhiều năm nhưng hai bên không có biện pháp hàn gắn tình cảm vợ chồng. Về phía chị N kiên quyết ly hôn còn anh T cho rằng anh còn thương vợ, thương con và mong muốn vợ chồng đoàn tụ, tuy nhiên anh đã có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm, điều đó chứng tỏ anh không quan tâm đến kết quả xét xử và không chủ động, quyết tâm trong việc hàn gắn tình cảm vợ chồng. Hội đồng xét xử xét thấy quan hệ hôn nhân giữa chị N và anh T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, do đó yêu cầu ly hôn của chị N là có cơ sở, phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận.

[3] Về con chung: Có hai con chung tên là Huỳnh Thị Khánh N1, sinh ngày 05/8/2010; Huỳnh Thanh G, sinh ngày 08/9/2013. Chị N và anh T đều có nguyện vọng nuôi hai con chung. Xét thấy cháu N1 và cháu G hiện tại đang sống chung với chị N, anh T đi cào biển điều kiện chăm sóc các con chung bị hạn chế, do đó cần giao hai con chung cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng để đảm bảo sự phát triển bình thường của các cháu, phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân và Gia đình cũng như nguyện vọng của cháu N1, cháu G trên 07 tuổi. Chị N yêu cầu cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 745.000 đồng cho mỗi đứa con, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 26/02/2021) là có cơ sở và phù hợp với Điều 82, 116 Luật hôn nhân và Gia đình nên được chấp nhận.

[4] Về tài sản chung: Chị Trần Thị Mỹ N và anh Huỳnh Long T cùng yêu cầu để hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5] Về nợ chung: Chị Trần Thị Mỹ N và anh Huỳnh Long T khai thống nhất không có nên không xét đến.

[6] Đối với phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án là có cơ sở, phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

[7] Về án phí: Căn cứ theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Trần Thị Mỹ N phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Về án phí cấp dưỡng nuôi con: Anh Huỳnh Long T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn của chị Trần Thị Mỹ N đối với anh Huỳnh Long T.

Cho ly hôn giữa chị Trần Thị Mỹ N với anh Huỳnh Long T.

2. Về nuôi con chung: Giao hai con chung tên Huỳnh Thị Khánh N1, sinh ngày 05/8/2010; Huỳnh Thanh G, sinh ngày 08/9/2013 cho chị Trần Thị Mỹ N trực tiếp nuôi dưỡng.

Anh Huỳnh Long T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho chị Trần Thị Mỹ N mỗi tháng 745.000 đồng (Bảy trăm bốn mươi lăm nghìn đồng) cho mỗi đứa con. Thời gian cấp dưỡng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 26 tháng 02 năm 2021) cho đến khi các con chung đã T niên.

Anh T không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Chị N trực tiếp nuôi con cùng các T viên gia đình không được cản trở anh T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vi lơi ich cua con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 và Điều 119 của luật Hôn nhân va gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và quyết định thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Chị Trần Thị Mỹ N và anh Huỳnh Long T cùng yêu cầu để hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về nợ chung: Chị Trần Thị Mỹ N và anh Huỳnh Long T khai thống nhất không có nên không xét đến.

5. Về án phí.

- Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Chị Trần Thị Mỹ N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị N đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0002129 ngày 19 tháng 11 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện BĐ. Vậy, chị N đã nộp xong án phí.

- Án phí cấp dưỡng nuôi con:

Anh Huỳnh Long T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, điều 7, điều 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn Trần Thị Mỹ N có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng bị đơn Huỳnh Long T vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 19/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:19/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Đại - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:26/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về