Bản án về ly hôn số 18/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG KHƯƠNG, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 18/2021/HNGĐ-ST NGÀY 10/09/2021 VỀ LY HÔN

Trong ngày 10 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai, Tòa án nhân dân huyện Mường Khương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 58/2021/TLST-HNGĐ, ngày 22 tháng 6 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 10 tháng 8 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số: 08/2021/QĐST-HNGĐ, ngày 25 tháng 8 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Lù Phủ L (Lù Seo T). Sinh năm 1976.

Địa chỉ: Thôn LKN, xã LKN, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai, (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

Bị đơn: Chị Vàng Thị D Sinh năm 1977.

Địa chỉ: Thôn LKN, xã LKN, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai, (vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 16 tháng 6 năm 2021 và bản tự khai có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn anh Lù Phủ L trình bày:

Anh và chị Vàng Thị D tự nguyện chung sống với nhau vào năm 1994, không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật mà do gia đình hai bên tổ chức theo phong tục tập quán của địa phương. Sau khi chung sống thì vợ chồng sống hòa thuận, hạnh phúc, đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống và làm ăn kinh tế dẫn đến vợ chồng không có sự tin tưởng nhau. Chị D thưởng bỏ nhà đi, không quan tâm đến chồng con. Mâu thuẫn của vợ chồng gia đình cũng khuyên bảo nhưng không có kết quả. Vì vậy anh đề nghị Tòa án giải quyết cho vợ chồng được ly hôn.

Về con chung: Trong quá trình chung sống vợ chồng anh có 02 người con chung là cháu Lù Seo T1, sinh ngày 30/7/1996 và cháu Lù Ty P, sinh ngày 03/6/1999. Hiện nay cháu T1 đang đi bộ đội, còn cháu Lù Ty P đã xây dựng gia đình nên anh không đề nghị giải quyết về việc nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng chị Vàng Thị D đều vắng mặt. Tòa án đã tiến hành xác minh của trưởng thôn và lấy lời khai của người làm chứng tại địa phương nơi chị D sinh sống thì được biết: Anh Lù Phủ L và chị Vàng Thị D chung sống với nhau vào năm 1994, không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật và đã có 02 con chung. Nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng anh chị là do vợ chồng bất đồng quan điểm, trong cuộc sống thường xảy ra cãi chửi nhau, sau đó chị D thường xuyên bỏ nhà đi, dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày một xa cách.

Tòa án đã ra thông báo về phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ nhưng chị D không có mặt. Tòa án đã thông báo kết quả phiên họp công khai chứng cứ và niêm yết tại địa phương theo quy định.

Tại phiên tòa, anh Lù Phủ L vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt, anh đề nghị giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Chị D vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt tất cả các đương sự theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Khương phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn là đúng quy định, việc chấp hành pháp luật của bị đơn là chưa đúng.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đại diện Viện sát nhân dân huyện Mường Khương đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 14, Điều 15, khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a, khoản 5, Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án: Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh Lù Phủ L và chị Vàng Thị D.

Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Do nguyên đơn không đề nghị Tòa án giải quyết nên không đề cập xử lý. Tuyên án phí, quyền kháng cáo của đương sự theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Anh Lù Phủ L khởi kiện xin ly hôn và đề nghị giải quyết việc ly hôn nên xác định đây là vụ án về Hôn nhân và gia đình. Chị D đăng ký hộ khẩu và cư trú tại thôn LKN, xã LKN, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai nên vụ án thuộc thẩm quyền thụ lý, giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Mường Khương quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, nguyên đơn là anh Lù Phủ L vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt, chị Vàng Thị D vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, đủ căn cứ xác định: Anh Lù Phủ L và chị Vàng Thị D tự nguyện chung sống với nhau vào năm 1994, không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên quan hệ hôn nhân giữa anh L và chị D không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Anh L khởi kiện xin ly hôn, vì vậy cần tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh Lù Phủ L và chị Vàng Thị D là đúng quy định của pháp luật

[3]. Về con chung: Quá trình chung sống anh L và chị D có 02 con chung là cháu Lù Seo T1, sinh ngày 30/7/1996 và cháu Lù Ty P, sinh ngày 03/6/1999. Hiện nay các con của anh L, chị D đã trưởng thành, anh L không đề nghị Tòa án giải quyết về việc nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[4]. Về tài sản chung và nợ chung: Do nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về án phí: Anh Lù Phủ L phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 14, Điều 15, khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 36; khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a, khoản 5, Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh Lù Phủ L (Lù Seo T) và chị Vàng Thị D.

2. Về án phí: Anh Lù Phủ L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai theo biên lai ký hiệu AC-21P, số 0006392, ngày 18 tháng 6 năm 2021.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

288
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 18/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:18/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Khương - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:10/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về