Bản án về ly hôn số 15/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUYÊN HOÁ, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 15/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/06/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 15 tháng 6 năm 2022, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 16/2022/TLST - HNGĐ ngày 22 tháng 02 năm 2022 về việc “Ly hôn”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2022/QĐST- DS ngày 01/6/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị T, sinh năm: 1988.

Địa chỉ: Tiểu khu 2, thị trấn L, huyện H, tỉnh Quảng Bình (có mặt).

Bị đơn: Anh Hồ Thanh H, sinh năm: 1986.

Nơi ĐKHKTT: Tiểu khu 2, thị trấn L, huyện H, tỉnh Quảng Bình.

Hiện đang chấp hành hình phạt tù tại: Đội 18, phân trại số 01, trại giam N, cục C10, Bộ Công an (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện về việc xin ly hôn ngày 10/02/2022, bản tự khai ngày 15/3/2022 và tại phiên toà chị Hoàng Thị T trình bày: Chị và anh Hồ Thanh H kết hôn với nhau trên cơ sở hai bên tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn L, huyện H, tỉnh Quảng Bình vào ngày 13/3/2011. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống chung với bố mẹ chồng tại tiểu khu 2, thị trấn L, huyện H, tỉnh Quảng Bình. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoản năm 2018 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Hồ Thanh H phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy bị Tòa án xử phạt 8 năm tù và phải đi chấp Hnh án, hiện tại chị T một mình phải nuôi hai con nhỏ, do anh H nghiện ma túy nên không chăm lo cho gia đình, phía nhà chồng cũng đối xử không tốt với ba mẹ con chị T. Chị T nhận thấy hiện tại tình cảm vợ chồng không còn nên có nguyện vọng xin được ly hôn với anh Hồ Thanh H.

Về con chung: Theo lời trình bày của chị T vợ chồng có 02 con chung tên là Hồ Hoàng M, sinh ngày 02/8/2011 và Hồ Hoàng L, sinh ngày 17/12/2014 hiện đang sống cùng chị T. Nguyện vọng của chị T xin được nuôi cả hai con và yêu cầu sau khi mãn hạn tù anh H phải cấp dưỡng tiền nuôi con Hồ Hoàng L mỗi tháng 1.000.000đ.

Về tài sản và công nợ chung của vợ chồng: Theo lời trình bày của chị T vợ chồng không có nên không yêu cầu Toà án xem xét.

Sau khi thụ lý vụ án, Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá đã triệu tập các bên đương sự đến tại Toà án để lấy lời khai, chị Hoàng Thị T cung cấp thông tin hiện anh Hồ Thanh H đang chấp hành hình phạt tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” tại Bản án số 02/2019/HSST ngày 28/6/2019 và Quyết định thi hành án số 27 ngày 04/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa nên Toà án không thể thực hiện việc hoà giải cho các đương sự do hiện nay anh Hồ Thanh H đang chấp Hnh án tại Trại giam A, cục C10, Bộ Công an.

Ngày 25/3/2022 Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa ra Quyết định ủy thác thu thập chứng cứ số 03/2022/QĐ-UTTA cho Tòa án nhân dân huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị nhưng không có kết quả.

Đến ngày 30/5/2022 Tòa án nhận được bản tự khai và đơn đề nghị xét xử vắng mặt của anh Hồ Thanh H có xác nhận của Trại Giam A, Cục C10, Bộ Công an. Tại bản tự khai ngày 21/5/2022 anh Hồ Thanh H trình bày: Anh và chị Hoàng Thị T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, sau khi kết hôn giữa hai vợ chồng không có mâu thuẫn gì. Hiện tại chị T làm đơn xin ly hôn thì anh H cũng đồng ý. Con chung của vợ chồng có hai đứa con như trình bày của chị T, sau khi ly hôn anh H có nguyện vọng giao hai con cho chị T nuôi dưỡng vì hiện tại anh H đang chấp hành án tại Trại giam A nên không có điều kiện để chăm sóc và nuôi dưỡng con. Về tài sản chung và công nợ chung của vợ chồng không có gì. Vì hiện tại anh H đang chấp hành hình phạt hình phạt tù tại đội 18, phân trại số 01, trại giam Nghĩa An, cục C10, Bộ Công an nên đã làm đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá đã ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật. Tại phiên toà nguyên đơn chị Hoàng Thị T có mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn với anh Hồ Thanh H vì mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, vợ chồng đã sống ly thân với nhau từ năm 2018 cho đến nay, tình cảm vợ chồng không còn, nên không thể hàn gắn trở lại. Phía bị đơn anh Hồ Thanh H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình phát biểu tại phiên tòa đối với Thẩm phán và Thư ký trong quá trình giải quyết vụ án đã tuân thủ theo các quy định của pháp luật và tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã đảm bảo thực hiện đúng và đủ thành phần theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Quá trình giải quyết bị đơn vắng mặt vì hiện đang chấp hành hình phạt tù tại đội 18, phân trại số 01, trại giam A, cục C10, Bộ Công an. Tại phiên tòa hôm nay bị đơn anh Hồ Thanh H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 207, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để xét xử vắng mặt anh Hồ Thanh H. Về quan hệ hôn nhân đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51, Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình Luật hôn nhân và gia đình để công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Hoàng Thị T và anh Hồ Thanh H. Về con chung: Đề nghị áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình giao ai con Hồ Hoàng M và Hồ Hoàng L cho chị Hoàng Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Về cấp dưỡng nuôi con: Hiện tại anh Hồ Thanh H đang chấp hành án phạt tù vì vậy chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết, sau khi anh H chấp hành án xong nếu chị T có yêu cầu khác sẽ xử lý sau. Tài sản chung và công nợ chung của vợ chồng: Chị Hoàng Thị T và anh Hồ Thanh H đều thừa nhận vợ chồng không có nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Án phí dân sự sơ thẩm chị Hoàng Thị T đã nộp số tiền 300.000đ tại chi cục Thi Hnh án dân sự huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình nay phải chịu toàn bộ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị T và anh Hồ Thanh H tìm hiểu và kết hôn với nhau trên cơ sở hai bên tự nguyện, không bị ai ép buộc, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn L theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung tại tiểu khu 2, thị trấn L, huyện H, tỉnh Quảng Bình. Thời gian đầu vợ chồng chung sống tình cảm vợ chồng đầm ấm hạnh phúc, nhưng đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Hồ Thanh H phạm tội vận chuyển trái phép chất ma túy và bị xử phạt 8 năm tù giam, thời gian ở nhà anh H nghiện ma túy nên cũng không chăm lo cho gia đình, sau khi anh H đi chấp hành án thì chị T một mình nuôi hai con nhỏ, mặt khác gia đình nhà chồng thiếu sự thông cảm với chị T trong cuộc sống nên bất đồng luôn xảy ra. Vì vậy chị T nhận thấy tình cảm vợ chồng thực sự không còn nên chị Hoàng Thị T có nguyện vọng xin được ly hôn với anh Hồ Thanh H để ổn định cuộc sống.

Tại phiên toà anh Hồ Thanh H vắng mặt nhưng đã có đơn Đề nghị xét xử vắng mặt, do hiện đang phải chấp hành án tại trại giam A, cục C10, Bộ Công an. Xét việc vắng mặt của anh H tại phiên toà hôm nay là trường hợp bất khả kháng, lý do vắng mặt của anh H là chính đáng.

Xét tình trạng vợ chồng, Hội đồng xét xử thấy rằng mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng không khắc phục được, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vợ chồng sống ly thân với nhau đã lâu, hai bên bỏ mặc không quan tâm lẫn nhau. Hiện tại tình cảm vợ chồng thực sự không còn nếu duy trì cuộc hôn nhân này sẽ không có lợi cho cả hai phía, nguyện vọng xin ly hôn của chị Hoàng Thị T là chính đáng đồng thời anh Hồ Thanh H cũng nhất trí ly hôn theo nguyện vọng của chị T.

Vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận và áp dụng khoản 1 Điều 51, Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 207, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự xử: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Hoàng Thị T và anh Hồ Thanh H và chấp nhận việc vắng mặt anh Hồ Thanh H là phù hợp.

[2] Về con chung của vợ chồng: Theo lời trình bày của chị Hoàng Thị T và anh Hồ Thanh H: Vợ chồng có 02 con chung tên là Hồ Hoàng M, sinh ngày 02/8/2011 và Hồ Hoàng L, sinh ngày 17/12/2014. Hiện tại cả hai con đang ở cùng chị T. Nguyện vọng của chị T là được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cả hai con. Chị T có yêu cầu anh H sau khi chấp hành án xong phải cấp dưỡng nuôi con Hồ Hoàng L mỗi tháng 1.000.000đ (một triệu đồng). Tại các bản tự khai ngày 15/3/2022 cháu Hồ Hoàng M có nguyện vọng được ở với bố Hồ Thanh H, cháu Hồ Hoàng L có nguyện vọng được ở với mẹ Hoàng Thị T.

Quá trình giải quyết phía gia đình anh H là ông Hồ Đức N và bà Hoàng Thị L (là bố mẹ của anh Hồ Thanh H), trú tại: Tiểu khu 2, thị trấn L có đơn xin được nuôi cháu nội là Hồ Hoàng Minh và Hồ Hoàng Linh cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Tuy nhiên xét thấy yêu cầu của ông bà là không đúng pháp luật và không phù hợp nên Hội đồng xét xử không chấp nhận. Mặt khác mẹ của các cháu là chị Hoàng Thị T là người có điều kiện để trực tiếp nuôi con nên cần giao cho chị Hoàng Thị T trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con là đảm bảo đúng quy định của pháp luật và quyền lợi của các con.

Xét nguyện vọng của chị T là chính đáng, phù hợp với nguyện vọng của anh Hồ Thanh H và nguyện vọng của các con. Mặc dù cháu Hồ Hoàng M có nguyện vọng được ở với bố nhưng hiện tại anh H đang chấp hành án tại Trại Giam A nên không đủ điều kiện để chăm sóc nuôi dưỡng con.Vì vậy để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cũng như ổn định cuộc sống và học tập của các cháu Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình giao cho chị Hoàng Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cả hai con là Hồ Hoàng L và Hồ Hoàng M. Đồng thời cần áp dụng Điều 107, Điều 110 và Điều 116 Luật Hôn nhân và Gia đình buộc anh Hồ Thanh H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con Hồ Hoàng L mỗi tháng 1.000.000đ (một triệu đồng) kể từ tháng 7 năm 2022 cho đến khi con Hồ Hoàng L đủ 18 tuổi.

[3] Về tài sản và công nợ chung của vợ chồng: Chị Hoàng Thị T và anh Hồ Thanh H không có yêu cầu Toà án giải quyết vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Hoàng Thị T đã nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000đ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuyên Hoá theo biên lai số 0000053 ngày 22 tháng 02 năm 2022 nay phải chịu toàn bộ khoản án phí.

[5] Về án phí cấp dưỡng nuôi con: Buộc anh Hồ Thanh H phải chịu 300.000đ theo quy định của pháp luật.

Từ những căn cứ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng khoản 1 Điều 51, Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình, khoản 2 Điều 207, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự xử: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Hoàng Thị T và anh Hồ Thanh H và chấp nhận việc vắng mặt tại phiên toà của anh Hồ Thanh H.

2. Về con chung: Áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình xử: Giao cho chị Hoàng Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc hai con là Hồ Hoàng M, sinh ngày 02/8/2011 và Hồ Hoàng L, sinh ngày 17/12/2014. Áp dụng Điều 107, Điều 110, Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình buộc anh Hồ Thanh H có nghĩa vụ phải cấp dưỡng nuôi con Hồ Hoàng L mỗi tháng 1.000.000đ (một triệu đồng), kể từ tháng 7 năm 2022 cho đến khi con Hồ Hoàng Linh đủ 18 tuổi.

Không ai được ngăn cản việc đi lại, trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung, khi cần thiết vì lợi ích của con, một trong hai bên có quyền làm đơn yêu cầu Toà án thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại khoản 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Về tài sản và công nợ chung của vợ chồng: Chị Hoàng Thị T và anh Hồ Thanh H không yêu cầu Toà án giải quyết. Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Hoàng Thị T đã nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000đ tại Chi cục Thi Hnh án dân sự huyện Tuyên Hoá theo biên lai số 0000053 ngày 22 tháng 02 năm 2022 nay phải chịu 300.000 đồng và được khấu trừ hết số tiền trên. Vậy chị T đã nộp đủ án phí.

5. Án phí cấp dưỡng nuôi con: Buộc anh Hồ Thanh H phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Tuyên bố nguyên đơn chị Hoàng Thị T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày xét xử. Riêng anh Hồ Thanh H có quyền kháng cáo kể từ ngày nhận được bản sao bản án, hoặc ngày niêm yết bản sao bản án tại trụ sở Uỷ ban nhân dân thị trấn Đồng Lê, huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của anh Hồ Thanh H

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 15/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:15/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuyên Hóa - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về