Bản án về ly hôn số 12/2024/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 12/2024/HNGĐ-ST NGÀY 19/02/2024 VỀ LY HÔN

Ngày 19 tháng 02 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 133/2023/TLST - HNGĐ ngày 09 tháng 10 năm 2023 về “ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2024/QĐXXST - HNGĐ ngày 16/01/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 10/2024/QĐ-HPT ngày 02/02/2024 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Ngô Hải H, sinh năm 1998;

Nơi ĐKKTT: thôn B, xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1998 Nơi ĐKKTT: thôn B, xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình.

Địa chỉ: Số 47, tổ 1, Ấp V, xã V, thành phố C, tỉnh An Giang. Chị H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh T vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Ngô Hải H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: chị H và anh T tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã Quốc Tuấn huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình vào ngày 02/3/2023. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc tại thôn Bích Kê, xã Quốc Tuấn, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Đến tháng 6 năm 2023, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do không tìm được tiếng nói chung, anh T về quê ở An Giang sinh sống, không quan T đến chị H, vợ chồng ly thân từ đó đến nay. Nay chị H thấy không thể tiếp tục quan hệ vợ chồng với anh T được nữa nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T.

Về quan hệ con chung: không có.

Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tường trình ngày 14/10/2023, anh Nguyễn Ngọc T trình bày: anh và chị H quen nhau từ năm 2019 và có 01 con chung là Ngô Hoàng Quốc A sinh ngày 09/11/2022. Khoảng tháng 02/2023, anh T và chị H đăng ký kết hôn và làm giấy khai sinh con tại Uỷ ban nhân dân xã Quốc Tuấn, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Ngày 13/9/2023, chị H mang theo con và mang chiếc xe mô tô hiệu Honda Dream màu đen của anh T về thôn Bích Kê, xã Quốc Tuấn, huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình (xe này do mẹ anh T mua cho anh T trước khi anh T quen biết chị H). Anh T đề nghị chị H cho anh được quyền thăm gặp con và nuôi con.

Ngày 24/11/2023, Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương đã có công văn gửi anh T về quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh và làm thủ tục xác định cha cho con nhưng anh T không thực hiện theo yêu cầu của Tòa án.

Qua xác minh tại UBND xã Quốc Tuấn huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình thể hiện: chị H và anh T tự nguyện đăng ký kết hôn tại tại UBND xã Quốc Tuấn huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình chị H ở thôn Bích Kê, xã Quốc Tuấn, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống. Sau khi mâu thuẫn xảy ra, địa phương cũng đã hòa giải và vợ chồng đã hòa thuận chung sống với nhau được một thời gian rồi anh T về quê ở An Giang sinh sống, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Nay chị H xin ly hôn, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Về con chung của chị H và anh T, địa phương không biết rõ vì sau khi sinh con được hơn một tháng thì ngày 09/01/2023, chị H đã làm thủ tục khai sinh ngoài giá thú nên trong giấy khai sinh cháu Ngô Hoàng Quốc A sinh ngày 09/12/2022 chỉ có tên mẹ là chị Ngô Hải H. Sau khi khai sinh cháu Anh thì đến ngày 02/3/2023 anh T và chị H đến UBND xã Quốc Tuấn đăng ký kết hôn và không làm thủ tục nhận cha cho con để làm lại giấy khai sinh. Chị H và anh T không vay nợ các tổ chức đoàn thể tại địa phương. Tài sản chung vợ chồng không có. Anh T có hộ khẩu thường trú tại thôn B, xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình có quan điểm cho rằng Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn đã chấp Hnh đúng pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng. Bị đơn không tham gia tố tụng là không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về ý kiến giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị:

Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, chấp nhận cho chị H được ly hôn anh T.

Về quan hệ con chung: Không giải quyết.

Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Không giải quyết.

Về án phí: Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Xét thấy, Tòa án đã tiến Hnh tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho bị đơn nhưng bị đơn vẫn vắng mặt. Nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Vì vậy, Toà án tiến Hnh xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến Hnh thu thập tài liệu, chứng cứ, vì vậy Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng với quy định tại Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, chị H và anh T tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã Quốc Tuấn huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng mới đăng ký kết hôn ngày 02/3/2023, nhưng hiện nay vợ chồng không còn chung sống cùng nhau. Tòa án đã triệu tập để hòa giải đoàn tụ vợ chồng nhưng anh T vắng mặt. Điều này chứng tỏ đời sống chung của vợ chồng thực tế không còn tồn tại, mục đích của hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của chị H, quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa, xử cho chị H được ly hôn anh T là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về quan hệ con chung: Chị H khai không có con chung, giấy khai sinh cháu Ngô Hoàng Quốc A sinh ngày 09/12/2022 chỉ có tên mẹ là chị Ngô Hải H. Anh T trình bày cháu Ngô Hoàng Quốc A sinh ngày 09/12/2022 là con chung của vợ chồng. Tòa án đã yêu cầu anh T làm thủ tục xác định cha cho con nhưng anh T không thực hiện nên chưa có cơ sở xém xét vì vậy Tòa án không giải quyết về quan hệ con chung.

[5] Về quan hệ tài sản: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết, Tòa án đã gửi Công văn đề nghị anh T cung cấp chứng cứ chứng minh tài sản chung, riêng nhưng hết thời hạn anh T không cung cấp nên chưa có cơ sở xem xét, vì vậy Tòa án không đặt ra giải quyết về quan hệ tài sản chung.

[6] Về án phí: Chị H phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326 của Ủy ban thường vụ quốc hội.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình 2014; khoản 1 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Ngô Hải H được ly hôn anh Nguyễn Ngọc T.

2. Về quan hệ con chung: Không giải quyết.

3. Về quan hệ tài sản: Không giải quyết.

4.Về án phí: Chị Ngô Hải H phải chịu 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển số tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp là 300.000 đồng tại biên lai thu tiền số 0001988 ngày 09/10/2023 của Chi cục thi Hnh án dân sự huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình sang thi Hnh án phí.

5.Về quyển kháng cáo: Chị Ngô Hải H và anh Nguyễn Ngọc T vắng mặt tại phiên tòa, có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 12/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:12/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:19/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về