Bản án về ly hôn số 117/2023/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 117/2023/HNGĐ-ST NGÀY 07/12/2023 VỀ LY HÔN

Ngày 07 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 346/2023/TLST-HNGĐ ngày 05/10/2023 về việc: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 120/2023/QĐXX - ST ngày 21 tháng 11 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Tuyết L, sinh năm: 1990. Địa chỉ: Thôn 7, xã Tt, huyện LH, tỉnh Lâm Đồng.

2. Bị đơn: Anh Ngô Văn Th, sinh năm: 1989. Địa chỉ: Thôn PD, xã HĐ, tỉnh Lâm Đồng.

Cá đ ơng ó mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nguyên đơn hị Nguyễn Thị Tuyết L trình bày: Chị và anh Ngô Văn Th xây dựng gia đình với nhau năm 2011 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Hoài Đức, huyện H, tỉnh Lâm Đồng. Quá trình chung sống hòa Thận hạnh phúc đến giữa năm 2023 thì phát sinh mâu Thẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm không có tiếng nói chung và do chị không hợp với bố mẹ chồng nên vợ chồng thường xuyên to tiếng với nhau. Vợ chồng đã nhiều lần nói chuyện giải quyết mâu Thẫn, hàn gắn tình cảm nhưng không được. Do không thể tiếp tục chung sống với nhau nên vợ chồng đã ly thân, chị đã về nhà mẹ sống từ tháng 6/2023, trong thời gian ly thân vợ chồng không còn quan tâm đến nhau. Nay chị L xác định không còn tình cảm với anh Th nên chị L yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Th. Về con chung chị L xác định có 03 con chung là Ngô Thị Cẩm Uyên, sinh ngày 15/9/2012; Ngô Thị Tường Vy, sinh ngày 28/5/2017 và Ngô Văn Bình An, sinh ngày 29/02/2020. Khi ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp nuôi cả ba con chung, không yêu cầu anh Th phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung chị L xác định không có không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra chị không còn yêu cầu gì khác.

Bị đơn anh Ngô văn Th trình bày: Vợ chồng anh chị xây dựng gia đình với nhau như chị L trình bày là đúng. Quá trình chung sống hòa Thận đến giữa năm 2023 thì phát sinh mâu Thẫn, nguyên nhân do mâu Thẫn về việc phát triển kinh tế gia đình nên hay cãi nhau. Vợ chồng đã ly thân từ giữa năm 2023 đến nay không còn quan tâm đến nhau. Nay chị L yêu cầu ly hôn thì anh Th không không đồng vì mâu Thẫn nhỏ có thể khắc phục được, anh mong chị L quay về để vợ chồng cùng nhau nuôi dạy các con. Về con chung anh Th xác định vợ chồng có 03 con chung là Ngô Thị Cẩm Uyên, sinh ngày 15/9/2012; Ngô Thị Tường Vy, sinh ngày 28/5/2017 và Ngô Văn Bình An, sinh ngày 29 /02/2020. Hiện nay các con đều đang sống cùng anh. Nếu ly hôn anh Th yêu cầu được nuôi cả ba con chung, không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung anh Th xác định không có không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng không thành. Vì vậy, Tòa án triển khai đưa vụ án ra xét xử theo quy định.

Tại phiên tòa, chị L giữ nguyên yêu cầu ly hôn còn anh Th đồng ý ly hôn vì anh Th xác định anh đã níu kéo nhưng không được.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng cũng như phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án theo hướng đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Tuyết L, xử cho chị Nguyễn Thị Tuyết L được ly hôn với anh Ngô Văn Th. Về con chung đề nghị giao cả ba con chung cho anh Th có trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục theo nguyện vọng của con, chị L không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung các đương sự xác định không có nên đề nghị không xem xét. Về án phí: Đề nghị buộc chị Nguyễn Thị Tuyết L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận của đương sự cũng như ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: ChNguyễn Thị Tuyết L và anh Ngô Văn Th đăng ký kết hôn vào ngày 20 tháng 12 năm 2011 tại Ủy ban nhân dân xã Hoài Đức, huyện H, tỉnh Lâm Đồng. Hôn nhân giữa chị L và anh Th được xác lập trên cơ sở tự nguyện nên hôn nhân giữa chị L và anh Th là hợp pháp.

Về nguyên nhân mâu Thẫn: Tại phiên tòa cả hai đương sự cùng xác định quá trình chung sống đến giữa năm 2023 thì vợ chồng phát sinh mâu Thẫn. Do không thể tiếp tục chung sống nên chị L đã về nhà ngoại sống từ tháng 6/2023 cho đến nay. Xét thấy, nguyên nhân mâu Thẫn giữa chị L và anh Th là do vợ chồng bất đồng về việc phát triển kinh tế và do chị L mâu Thẫn với bố mẹ anh Th. Khi xảy ra mâu Thẫn chị L lại xử sự thiếu tế nhị nên trong những lúc nóng giận các đương sự không kiềm chế được đã xúc phạm đến lòng tự trọng của nhau khiến cho mâu Thẫn ngày càng trở nên trầm trọng và đã tự sống ly thân từ tháng 6/2023 cho đến nay, trong thời gian ly thân vợ chồng không còn sự quan tâm, chăm sóc nhau do tình cảm không còn. Quá trình thụ lý giải quyết vụ án anh Th không đồng ý ly hôn nhưng tại phiên tòa hôm nay anh Th xác định đã níu kéo nhưng không được nên anh đồng ý ly hôn. Theo kết quả xác minh người thân của các đương sự thì được cung cấp thông tin khi vợ chồng chị L anh Th xảy ra mâu Thẫn anh Th cũng đã cố gắng hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng chị L không đồng ý quay về nên Tòa án xem xét giải quyết cho anh chị được ly hôn để ổn định cuộc sống. Vì vậy, nếu kéo dài tình trạng hôn nhân như hiện nay cũng không đem lại hạnh phúc cho các đương sự do mâu Thẫn vợ chồng đã trầm trọng kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 57 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận đơn khởi kiện về việc ly hôn của chị L, xử cho chị L và anh Th được ly hôn theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

[2] Về con chung: Chị L và anh Th có 03 con chung là Ngô Thị Cẩm Uyên, sinh ngày 15/9/2012; Ngô Thị Tường Vy, sinh ngày 28/5/2017 và Ngô Văn Bình An, sinh ngày 29/02/2020. Tại đơn khởi kiện chị L yêu cầu được nuôi cả ba con chung, tại bản tự khai chị L yêu cầu được nuôi cháu An, giao cháu Uyên và cháu Vy cho anh Th có trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng. Tại biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa hôm nay chị L đề nghị khi ly hôn giao cả ba con chung cho anh Th có trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục, chị không cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, từ khi vợ chồng ly thân thì cả ba con chung vẫn sống với anh Th, do anh Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, các cháu được đi học, phát triển bình thường. Hơn nữa, cháu Uyên đã trên 07 tuổi và có nguyện vọng được sống cùng với bố khi bố mẹ ly hôn. Tại phiên tòa, anh Th đồng ý trực tiếp nuôi dưỡng cả ba con chung khi ly hôn. Vì vậy, giao cả ba con chung cho anh Th có trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục theo nguyện vọng của con.

Về việc cấp dưỡng nuôi con do anh Th không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về tài sản chung và nợ chung: các đương sự cùng xác định không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Tuyết L phải chịu 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 53, khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 147; Điều 203 và Điều 266 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

- Căn cứ khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức Th, miễn, giảm, Th, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử :

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Tuyết L, xử cho chị Nguyễn Thị Tuyết L và anh Ngô Văn Th được ly hôn.

2/ Về con chung: Giao con cả ba con là Ngô Thị Cẩm Uyên, sinh ngày 15/9/2012; Ngô Thị Tường Vy, sinh ngày 28/5/2017 và Ngô Văn Bình An, sinh ngày 29/02/2020 cho anh Ngô Văn Th có trách nhiệm trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục theo nguyện vọng của con. Chị Nguyễn Thị Tuyết L không phải cấp dưỡng nuôi con.

Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con; thay đổi mức cấp dưỡng được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

3/ Về án phí: Chị Nguyễn Thị Tuyết L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp là 300.000đồng theo biên lai Th tiền số 0000051 ngày 27/9/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện H, chị L đã nộp đủ án phí.

4/ Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án (07/12/2023) để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa Thận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 , 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

30
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 117/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:117/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Hà - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:07/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về