Bản án về ly hôn số 116/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 116/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/06/2021 VỀ LY HÔN

 Ngày 28 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 165/2021/TLST-HNGĐ, ngày 05 tháng 4 năm 2021 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 486/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Tấn V, sinh năm 1990; Địa chỉ: Đội X, thôn A Đ, xã D P, huyện Diên K, tỉnh Khánh Hòa (xin vắng mặt).

2. Bị đơn: Chị Hồ Bé N, sinh năm 1993; Địa chỉ: ấp Ô M, xã L V L, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau (xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Về hôn nhân, anh Nguyễn Tấn V và chị Hồ Bé N chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại UBND xã Diên P, huyện Diên K, tỉnh Khánh Hòa vào năm 2012. Quá trình chung sống, thời gian đầu có hạnh phúc nhưng sau đó, giữa vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, thường hay cải nhau và chị N bỏ nhà đi từ năm 2014 cho đến nay, mỗi người sống một nơi, cuộc sống nạnh ai nấy lo, không ai quan tâm đến ai. Nay anh V xin ly hôn, chị N cũng đồng ý ly hôn.

Về con chung, anh Nguyễn Tấn V và chị Hồ Bé N khai có 01 người con là Nguyễn Huy Hoàng, sinh ngày 30/9/2011, hiện đang chung sống với anh V. Khi ly hôn, anh V yêu cầu được nuôi con và không đặt ra yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con. Chị N cũng đồng ý giao con cho anh V nuôi và không cấp dưỡng nuôi con, riêng cháu Hoàng cũng có nguyện vọng được chung sống với anh V.

Về tài sản và nợ chung, anh Nguyễn Tấn V và chị Hồ Bé N khai không có. Đồng thời, do diễn biến dịch bệnh Covid 19 nên anh V không thể đi từ Đội 3, thôn An Đ, xã Diên P, huyện Diên K, tỉnh Khánh Hòa đến Tòa án để tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án, riêng chị N do bận công việc nên cả chị N và anh V cùng yêu cầu Tòa án hòa giải, xét xử vắng mặt anh chị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng, anh Nguyễn Tấn V cùng chị Hồ Bé N đã có lời khai và yêu cầu Tòa án hòa giải, xét xử vắng mặt với lý do bận công việc và do tình hình dịch bệnh không thể rời khỏi địa phương. Căn cứ vào quy định tại các Điều 228, 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì việc yêu cầu trên của anh, chị được chấp nhận nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành đưa vụ án ra xét xử.

[2] Về hôn nhân, anh Nguyễn Tấn V và chị Hồ Bé N chung sống với nhau có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên hôn nhân của anh, chị được pháp luật công nhận và bảo vệ. Xét mâu thuẫn thực tế được chị N, anh V trình bày có thật và cũng chính từ mâu thuẫn trên mà anh, chị không còn tình cảm với nhau. Hiện anh, chị đã sống ly thân từ năm 2014 cho đến nay, cuộc sống nạnh ai nấy lo, không ai quan tâm đến ai. Nay anh, chị cùng thống nhất thuận tình ly hôn nên chấp nhận.

[3] Về con chung là Nguyễn Huy Hoàng, sinh ngày 30/9/2011 hiện đang chung sống với anh V. Khi ly hôn, anh V có yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con, chị N cũng đồng ý.

Xét thấy, việc thỏa thuận người trực tiếp nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con giữa anh V cùng chị N trong quá trình giải quyết vụ án là hoàn toàn tự nguyện, không trái đạo đức xã hội, phù hợp với quy định của pháp luật và nguyện vọng của cháu Hoàng nên chấp nhận.

[4] Về tài sản chung và nợ chung, anh Nguyễn Tấn V và chị Hồ Bé N khai không có, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình, anh V phải chịu.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào các Điều 147, 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Tấn V về việc xin ly hôn chị Hồ Bé N.

- Về con chung là Nguyễn Huy Hoàng, sinh ngày 30/9/2011 hiện đang chung sống với anh Nguyễn Tấn V. Khi ly hôn, tiếp tục giao con cho anh V nuôi và không đặt ra yêu cầu chị Hồ Bé N cấp dưỡng nuôi con, chị N có quyền đến thăm nom, chăm sóc và nuôi dạy con chung.

- Về tài sản chung và nợ chung, anh Nguyễn Tấn V và chị Hồ Bé N khai không có, nên không đặt ra xem xét.

- Án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình, anh Nguyễn Tấn V phải chịu số tiền 300.000đ. Ngày 05/4/2021, anh V đã nộp tiền tạm ứng án phí là 300.000đ theo biên lai số 0000510 được đối trừ, chuyển thu sung quỹ Nhà nước.

Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 116/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:116/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về