Bản án về ly hôn số 108/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC TRỌNG – TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 108/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 27 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 206/2022/TLST- HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2022 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 23/8/2022; Quyết định hoãn phiên tòa số: 27/2022/QĐST-HNGĐ ngày 09/9/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Âu Thị Phi P, sinh năm: 1964.

Địa chỉ: Số Y, xóm D, thôn H, xã L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt tại phiên tòa.

Bị đơn: Ông Lư Phước L, sinh năm: 1965.

Địa chỉ: Xóm D, thôn P, xã H, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 22 tháng 4 năm 2022, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn là bà Âu Thị Phi P trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Lư Phước L kết hôn vào năm 1997, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Hôn nhân tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại thôn P, xã H, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Vợ chồng chung sống được 03 tháng thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do không hợp nhau, chung sống không hạnh phúc nên bà về nhà mẹ đẻ tại thôn H, xã L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng ở cho tới nay. Vợ chồng đã sống ly thân 25 năm nay. Nay bà xác định tình cảm vợ chồng không còn, thời gian ly thân đã quá lâu không thể hàn gắn được nữa nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Lư Phước L.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Lư Âu Phước Hoàng L1, sinh ngày 12/7/1998 (đã chết).

Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung. Về nợ chung: Vợ chồng không có nợ chung.

Bị đơn đã được Tòa án triệu tập và thông báo hợp lệ nhưng không có ý kiến phản hồi đối với yêu cầu của nguyên đơn, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

Tại phiên tòa, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện về việc ly hôn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý đến trước khi nghị án của Thẩm phán, Thư ký phiên tòa, Hội đồng xét xử là đúng quy định. Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định. Bị đơn chưa thực hiện quyền, nghĩa vụ làm cho vụ án kéo dài thời gian giải quyết.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Âu Thị Phi P, xử cho bà Âu Thị Phi P được ly hôn với ông Lư Phước L.

Về con chung: Bà P và ông L có 01 con chung tên Lư Âu Phước Hoàng L1, sinh ngày 12/7/1998, con đã chết nên không đề nghị xem xét.

Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề nghị xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết:

Bà Âu Thị Phi P khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Lư Phước L. Căn cứ khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn”. Bị đơn ông Lư Phước L hiện cư trú tại xóm D, thôn P, xã H, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn.

[3] Về quan hệ hôn nhân:

Bà Âu Thị Phi P và ông Lư Phước L đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 33 ngày 28/7/1997, hôn nhân do hai bên tự nguyện, có tổ chức lễ cưới. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa bà P và ông L là hợp pháp. Theo bà P trình bày, bà và ông L chỉ chung sống được khoảng 03 tháng do không hợp nhau nên bà và ông L đã sống ly thân đến nay là 25 năm. Tại phiên tòa bà P xác định vợ chồng ly thân đã quá lâu không còn tình cảm nên bà yêu cầu được ly hôn với ông L. Xét lời trình bày của bà P phù hợp với biên bản xác minh của Tòa án, thể hiện: ông L, bà P chung sống với nhau được khoảng 3-4 tháng, bà P có thai là bỏ về nhà cha mẹ đẻ sống đến nay. Ông L và bà P không còn liên lạc với nhau, giữa bà P và gia đình chồng không còn liên quan gì đến nhau. Mặt khác, ông L dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không đến Tòa để trình bày ý kiến và tham gia phiên họp, phiên hòa giải thể hiện thái độ bỏ mặc, không có thiện chí mong muốn hòa giải để hàn gắn tình cảm với bà P. Như vậy, có thể nhận thấy mâu thuẫn giữa bà P và ông L đã trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Căn cứ vào các Điều 51, 53, 56 Luật Hôn nhân gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc ly hôn của bà Âu Thị Phi P.

[4] Về con chung: Bà P và ông L có 01 con chung tên Lư Âu Phước Hoàng L1, sinh ngày 12/7/1998 (con đã chết theo trích lục khai tử số 05/TLKT ngày 13/01/2020 tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng) nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Bà P xác định không có tài sản chung, không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Nguyên đơn phải nộp 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Âu Thị Phi P về việc “Ly hôn” đối với ông Lư Phước L.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Âu Thị Phi P được ly hôn với ông Lư Phước L.

2. Về án phí: Buộc bà Âu Thị Phi P phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí bà P đã nộp theo biên lai thu số 0007464 ngày 29/4/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ. Bà Âu Thị Phi P đã nộp đủ án phí.

3. Quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án đương sự có mặt có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

82
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 108/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:108/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Trọng - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về