TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 10/2024/HNGĐ-ST NGÀY 30/01/2024 VỀ LY HÔN
Ngày 30 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 189/2023/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 11 năm 2023 về việc “Ly hôn; tranh chấp nuôi con chung” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 124/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 27/12/2023 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị H, sinh năm 1991 (vắng mặt)
Địa chỉ: Tổ 9, phường N, thành phố H, tỉnh Hà Giang
Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H1, sinh năm 1991(vắng mặt)
Địa chỉ: Xóm T, xã B, huyện N, tỉnh Nam Định
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 21/11/2023 và tại bản tự khai ngày 21/11/2023, nguyên đơn chị Hoàng Thị H trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn H1 kết hôn với nhau trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện N, tỉnh Nam Định ngày 25/10/2012.
Sau khi kết hôn vợ chồng chị chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì bắt đầu mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, không thể hòa hợp trong cuộc sống, dù vợ chồng đã nhiều lần tìm cách bỏ qua các mâu thuẫn để vun vén hạnh phúc nhưng đều không thành. Chị và anh H1 đã ly thân từ năm 2019 đến nay. Chị xác định tình cảm vợ chồng đã thực sự đổ vỡ không có khả năng hàn gắn đoàn tụ, đề nghị Toà án xem xét giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn H1.
Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Nguyễn Hoàng Bảo N sinh ngày 07/09/2012 hiện đang ở cùng chị. Khi ly hôn, chị H mong muốn được nuôi con chung và yêu cầu anh H1 phải cấp dưỡng nuôi con cho chị mỗi tháng 4.000.000 đồng, nếu anh H1 không đồng ý với mức cấp dưỡng này chị H yêu cầu cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.
Về tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa, chị H vắng mặt và có đơn xin giải quyết vắng mặt.
Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H1 đã được Tòa án triệu tập đến trụ sở Tòa án làm việc nhưng anh không đến, cũng không có văn bản trình bày ý kiến gửi cho Tòa án.
Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và các đương sự đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.
Về nội dung vụ án: Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 110, 116, 117 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, khoản 4 điều 147 Bộ luật TTDS; khoản 5, 6 Điều 27Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án:
1. Chấp nhận đơn khởi kiện củachị Hoàng Thị H. Xử cho ly hôn giữa chị Hoàng Thị H và anh Nguyễn Văn H1.
2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Hoàng Bảo N, sinh ngày 07/9/2012, cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Anh H1 có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Anh H1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.
3. Về án phí DSST: chị H phải nộp 300.000 đồng tiền án phí ly hôn, anh H1 phải nộp 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Anh Nguyễn Văn H1 hiện vẫn có hộ khẩu thường trú tại địa phương nhưng đi làm tự do không rõ thời điểm trở về, vì vậy không thể thực hiện việc tống đạt hoặc thông báo trực tiếp. Tòa án nhân dân huyện N đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo đúng quy định tại Điều 177 và Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự. Chị Hoàng Thị H có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Nguyễn Văn H1 vắng mặt lần thứ hai không có lý do; căn cứ khoản 2 Điều 227;
khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về hôn nhân: Chị Hoàng Thị H và anh Nguyễn Văn H1 kết hôn với nhau trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện N, tỉnh Nam Định ngày 25/10/2012; Vì vậy đây là cuộc hôn nhân hợp pháp.
[3] Trong quá trình chung sống, giữa chị Hoàng Thị H và anh Nguyễn Văn H1 nảy sinh mâu thuẫn nguyên nhân theo chị H trình bày là do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hòa hợp. Chị H khởi kiện xin ly hôn anh Nguyễn Văn H1, anh H1 không đến Tòa làm việc không có ý kiến về yêu cầu khởi kiện của chị H, chứng tỏ anh H1 không còn thiết tha với cuộc sống vợ chồng, cả hai bên không gặp gỡ tìm biện pháp hàn gắn đoàn tụ.
[4] Xét thấy cuộc hôn nhân giữa chị Hoàng Thị H và anh Nguyễn Văn H1 đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được; Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn anh Nguyễn Văn H1 của chị Hoàng Thị H [5] Về việc giao con chung chưa thành niên: chị Hoàng Thị H và anh Nguyễn Văn H1 có một con chung là cháu Nguyễn Hoàng Bảo N, sinh ngày 07/9/2012, hiện tại đang ở cùng mẹ. Nguyện vọng của cháu N là được ở cùng mẹ. Sau khi ly hôn nguyện vọng của chị H là được tiếp tục nuôi cháu N và yêu cầu anh H1 cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 4.000.000 đồng, nếu anh H1 không đồng ý với mức cấp dưỡng này chị H yêu cầu cấp dưỡng theo quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử thấy: Căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh của các bên, căn cứ vào nguyện vọng của con chung để đảm bảo ổn định việc học tập sinh hoạt của con chung nên tiếp tục giao con chung cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng; Về mức cấp dưỡng nuôi con: chị H không cung cấp được tài liệu về thu nhập của anh H1, anh H1 không đến Tòa án làm việc không trình bày ý kiến về việc nuôi con chung nên không có căn cứ để chấp nhận mức cấp dưỡng nuôi con hàng tháng là 4.000.000 đồng theo yêu cầu của chị H, căn cứ vào hoàn cảnh, thu nhập của địa phương xác định mức cấp dưỡng nuôi con hàng tháng 2.000.000 đồng là phù hợp.
[6] Về tài sản: Chị Hoàng Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết, nếu sau này các đương sự có yêu cầu sẽ giải quyết bằng vụ án dân sự khác.
[7] Về án phí: Chị Hoàng Thị H phải nộp án phí ly hôn, anh H1 phải nộp án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
[8] Về quyền kháng cáo: Chị Hoàng Thị H và anh Nguyễn Văn H1 được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 56; Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 116, Điều 117 Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
1.Về hôn nhân: Xử cho ly hôn giữa chị Hoàng Thị H và anh Nguyễn Văn H1.
2. Giao con chung chưa thành niên: Giao con chung Nguyễn Hoàng Bảo N, sinh ngày 07/9/2012 cho chị Hoàng Thị H tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Văn H1 có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng kể từ tháng 01/2024 đến khi con chung đủ 18 tuổi và có quyền thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
3.Về án phí: Chị Hoàng Thị H phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn, được đối trừ vào số tiền 300.000 đồng chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N theo biên lai thu số 0004916 ngày 21/11/2023. Anh Nguyễn Văn H1 phải nộp 300.000 đông án phí cấp dưỡng nuôi con.
4.Về quyền kháng cáo: Chị Hoàng Thị H, anh Nguyễn Văn H1 có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì các đương sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn số 10/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 10/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nam Trực - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về