Bản án về ly hôn số 07/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUN LÊ CHÂN, THÀNH PH HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 07/2024/HNGĐ-ST NGÀY 29/01/2024 VỀ LY HÔN

Ngày 29 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 154/2023/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 10 năm 2023 về “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1291/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 12 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên toà số 45/2024/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 01 năm 2024 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Dương Thị Vân A; đăng ký hộ khẩu thường trú: số A L, phường L, quận L, thành phố Hải Phòng; chỗ ở: Số A T, phường T, quận L, thành phố Hải Phòng; có mặt.

2. Bị đơn: Anh Bùi Xuân H; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số A L, phường L, quận L, thành phố Hải Phòng; chỗ ở: Số A P (số A N), phường N, quận L, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn; bản tự khai; biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tại phiên tòa, nguyên đơn (chị Dương Thị Vân A) trình bày: Tôi và anh Bùi Xuân H tự nguyện xây dựng gia đình với nhau năm 2022, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường L, quận L, thành phố Hải Phòng vào ngày 01/4/2022.

Trong quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận đến tháng 6 năm 2022 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh H ham chơi, không có công ăn việc làm, không chăm lo cho gia đình và thường xuyên mắng chửi vợ. Gia đình và bạn bè đã hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả mà mâu thuẫn vợ chồng tôi ngày càng trầm trọng hơn. Khoảng đầu tháng 5 năm 2023, mâu thuẫn vợ chồng quá trầm trọng nên tôi đã dọn ra ngoài ở, thuê nhà tại số A T, phường T, quận L, thành phố Hải Phòng sinh sống từ đó đến nay; anh H vẫn sinh sống tại số A P (số A N là lối đi khác vào do nhà anh H nằm giữa của 2 ngõ và 2 ngõ của hai phố này thông nhau), phường N, quận L, thành phố Hải Phòng. Vợ chồng tôi sống ly thân từ đó đến nay, mỗi người một nơi, không ai quan tâm đến ai. Gia đình cũng đã khuyên can nhưng không có kết quả. Nay tôi nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng và kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn anh H.

Về con chung: Tôi và anh H không có con chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung hay công nợ: Tôi và anh H không có tài sản chung và không có công nợ, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn (anh Bùi Xuân H) trong quá giải quyết mặc dù đã được nhận các văn bản của Tòa án giao đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng đều vắng mặt, không có lý do và không có ý kiến trình bày.

Tại biên bản ghi ý kiến của đại diện gia đình anh Bùi Xuân H (bà Phạm Thị H1 - mẹ đẻ anh H) cho biết: Chị Dương Thị Vân A và anh Bùi Xuân H tự nguyện xây dựng gia đình với nhau, được gia đình hai bên tổ chức cưới hỏi và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Sau khi kết hôn, anh H và chị Vân A ở cùng với vợ chồng tôi tại số A P (số A N là đi lối ngõ A đường N vào do nhà nằm giữa ngõ của hai phố đi thông nhau nhưng đều thuộc phường N, quận L, thành phố Hải Phòng); thực tế theo địa phương quản lý thì phải lấy số 18/4/170 Phạm Hữu Đ. Trong thời gian chung sống, cháu H và cháu Vân A bất đồng quan điểm, cách sống không hòa hợp, trong sinh hoạt hai cháu cũng có sự khác biệt, tính cách hai cháu trong cuộc sống chưa chín chắn, thường xuyên cãi nhau. Hiện tại cháu Vân A đang ở tại số A T, phường T, quận L, thành phố Hải Phòng từ tháng 02/2023 đến nay; giữa hai cháu đến nay không còn quan hệ gì với nhau. Nay cháu Vân A có đơn xin ly hôn cháu H, đại diện gia đình nhận thấy cuộc sống hôn nhân của hai cháu không có hạnh phúc nên gia đình cũng đồng ý với yêu cầu xin ly hôn của cháu Vân A, đề nghị Tòa án căn cứ theo quy định pháp luật để giải quyết, về con chung và tài sản chung, cháu H và cháu Vân A không có con chung và không có tài sản chung, đại diện gia đình không có ý kiến đề nghị gì. Các văn bản Tòa án giao cho cháu H, tôi đã nhận thay và đã thông báo, giao lại cho anh H ngay, còn việc cháu H có đến Tòa án để làm việc hay không là quyền của cháu, gia đình không can thiệp.

Kiểm sát viên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Kể từ khi thụ lý vụ kiện đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng pháp luật tố tụng dân sự về thụ lý, thu thập chứng cứ, lấy lời khai của đương sự, việc giao các văn bản cho các bên. Về phía nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ theo quy định tố tụng dân sự khi tham gia tố tụng; bị đơn chưa chấp hành đầy đủ theo quy định tố tụng dân sự khi tham gia tố tụng.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Dương Thị Vân A được ly hôn anh Bùi Xuân H. Về con chung: Chị Vân A và anh H không có con chung nên không đặt ra xem xét giải quyết. Về tài sản chung, công nợ: Hai bên không yêu cầu, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị Vân A phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

- Về tố tụng:

[1] Chị Dương Thị Vân A có đơn khởi kiện xin ly hôn anh Bùi Xuân H, xét thấy cả hai bên đều cư trú trên địa bàn quận L nên căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

[2] Tại phiên tòa anh H vắng mặt lần thứ hai không có lý do (ngay cả trong quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết anh H đều vắng mặt) mặc dù đã nhận được các văn bản Tòa án giao theo đúng quy định pháp luật; qua đó cho thấy anh H đã tự từ bỏ quyền, nghĩa vụ của mình trước pháp luật. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh H theo quy định pháp luật.

- Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Việc kết hôn giữa chị Dương Thị Vân A và anh Bùi Xuân H tuân thủ đúng quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Tại bản tự khai, lời trình bày của nguyên đơn và ý kiến của đại diện gia đình bị đơn thể hiện quá trình chung sống chị Vân A, anh H phát sinh mâu thuẫn từ năm 2022, nguyên nhân do hai bên bất đồng cách sống, quan điểm sống, thường xuyên xảy ra cãi vã, vợ chồng không thông cảm, chia sẻ cho nhau; hai bên gia đình đã khuyên giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Mâu thuẫn vợ chồng ngày trầm trọng, nhất là từ tháng 05/2023, chị Vân A đã thuê nhà ở riêng tại số A T, phường T, quận L, thành phố Hải Phòng; hai bên sống ly thân mỗi người một nơi và không còn quan hệ gì với nhau về tình cảm, kinh tế. Qua đó cho thấy mâu thuẫn giữa hai bên đã thực sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được; việc chị Vân A xin ly hôn với anh H là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình nên được chấp nhận.

[4] Về con chung: Chị Vân A và anh H không có con chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Hai bên không có, do vậy Hội đồng xét xử không đặt ra xét giải quyết.

[6] Về án phí: Chị Vân A phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm để sung quỹ Nhà Nước theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Dương Thị Vân A được ly hôn anh Bùi Xuân H.

2. Về án phí: Chị Vân A phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm để nộp vào ngân sách Nhà nước. Số tiền này chị Vân A đã nộp đủ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân theo Biên lai thu tiền số 0005676 ngày 19 tháng 10 năm 2023.

Về quyền kháng cáo: Chị Vân A có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 07/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:07/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:29/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về